Toàn văn ĐỀ ÁN TÁI THIẾT HOÀNG CUNG THĂNG LÒNG THÀNH KHU DI TÍCH LỊCH SỬ & DI SẢN VĂN HÓA LIÊN HOÀN LỚN NHẤT QUỐC GIA
ĐỀ ÁN
TÁI THIẾT HOÀNG CUNG THĂNG LONG THÀNH KHU DI TÍCH LỊCH SỬ
& DI SẢN VĂN HÓA LIÊN HOÀN LỚN NHẤT QUỐC GIA
Tại sao phải tốn tiền, tốn của, tốn sức người để xây dựng Hoàng cung Thăng Long thành khu di tích lịch sử & di sản văn hóa liên hoàn lớn nhất Quốc gia?
Vấn đề này, qua nhiều cuộc hội thảo có một thiểu số ý kiến cho rằng: Không nên tái thiết các công trình lịch sử đã “yên nghỉ”, hãy để thời gian nghiên cứu đầy đủ, rõ ràng rồi hãy bắt tay vào việc xây dựng. Song đa số có nhiều ý kiến ngược lại, ta phải tái thiết lại Điện Kính Thiên và Hoàng cung Thăng Long càng sớm càng tốt. Chúng tôi ủng hộ loại ý kiến thứ hai này, vì nó mang tính chất tích cực, khai thác thể mạnh của lịch sử để thúc đẩy dân tộc Việt Nam trường tồn và phát triển. Các công trình, di sản văn hóa vùi sâu trong lòng đất đã trải qua trên một nghìn năm rồi, còn đợi đến bao giờ mới đánh thức nó tỉnh dậy?
Để phục vụ cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc và nối tiếp truyền thống dựng nước và giữ nước của Tổ tiên, người ta phải khai thác lịch sử như thế nào để phục vụ lợi ích dân tộc cao nhất? Bởi vậy, để xây dựng đề án này chúng tôi xin được trình bày qua các lý do sau:
I. VỀ VỊ TRÍ ĐỊA LÝ, Ý NGHĨA LỊCH SỬ VÀ GIÁ TRỊ VĂN HÓA
1. Hoàng cung Thăng Long nằm ở nơi tương truyền hàng nghìn năm qua là rốn Rồng Thần Long Đỗ. Điều thiêng liêng ấy nó đã ăn sâu vào tâm khảm, tâm linh của hàng triệu trái tim con người. Về phong thủy là nơi hội tụ tứ khí của bốn phương trời đất. Đây là nơi đất lành phong vật trù phú. Nơi hội tụ của anh hùng hào kiệt và trí giả anh minh của muôn nơi tụ lại. Đúng là nơi mà trong lời chiếu dời Đô của Vua Lý Thái Tổ–Lý Công Uẩn đã viết: “Ở trung tâm bờ cõi đất nước, được cái thế rồng cuộn, hổ ngồi. Vị trí ở bốn phương Đông – Tây – Nam – Bắc, tiện hình thế núi, sông sau trước. Ở đó rộng mà bằng phẳng, vùng đất cao mà sáng sủa. Dân cư không khổ vì ngập lụt, muôn vật rất phong phú và tốt tươi. Xem khắp đất Việt ta chỗ ấy là nơi hơn cả. Thật là chỗ hội họp của bốn phương, là nơi đô
thành bậc nhất của đế vương muôn đời”…
2. Hoàng Cung là Thủ đô lâu đời trên Thế giới. Trong cả nước không nơi nào có được vị thế địa lý và giá trị lịch sử. Nếu so sánh nhiều Thủ đô Châu Âu có độ tuổi lâu đời nổi tiếng như Kiev (Ucraina), Moskva (Nga), Paris (Pháp), London (Anh) thì Thủ đô Thăng Long vẫn đứng đầu về tuổi đời năm tháng.
3. Hoàng cung Thăng Long là nơi dựng nghiệp, sản sinh, che chở, chứng
kiến một chiều dài lịch sử hàng nghìn năm của các vương triều phong kiến Đại Việt hưng thịnh, tàn lụi và các thể chế chính trị Nhà nước nối tiếp nhau tồn tại và phát triển. Trong đó chứng kiến:
v Tám Triều Vua Lý, trị vị 215 năm (từ 1010 - 1225).
v Mười hai Triều Vua Trần, trị vì 175 năm (từ 1225 - 1400).
v Hai mươi bảy Triều Vua Lê (Lê sơ, Lê Trung hưng, Lê – Mạc, Lê – Trịnh).
v Mười hai đời Chúa Trịnh. Tất cả các triều Lê – Mạc, Lê – Trịnh được 354 năm (từ 1428 – 1782).
v Mười ba năm ngắn ngủi của Triều Tây Sơn (từ 1789 – 1802).
v Một trăm bốn mươi ba năm vương Triều Nguyễn (1802 – 1945) (tuy nhà Nguyễn đóng đô ở Kinh thành Huế nhưng vẫn lập ra Tỉnh Hà Nội với Trấn Bắc Thành, đặt chức quan Tổng trấn và Tổng đốc để cai quản).
v Thực dân Pháp 80 năm đô hộ (cũng lấy Hà Nội làm thủ Phủ và chức quan Đốc lý, Toàn quyền để cai quản xứ Đông Dương). Nhà nước Việt Nam có Đảng lãnh đạo( từ năm 1945 đến 2010) vẫn là Thủ đô Hà Nội.
v Hoàng cung Thăng Long nơi đây đã chứng kiến nhiều sự kiện trọng đại của lịch sử. Vào năm 1945, Thế kỷ XX, một sự kiện lịch sử vĩ đại chưa từng có đã diễn ra tại cửa thành phía Tây (gọi là Cửa Quảng Phúc) của Hoàng cung Thăng Long : Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cho dựng kỳ đài ở Quảng trường Ba Đình để Người đọc Bản Tuyên ngôn độc lập ngày 2 –9 – 1945, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
v Thật là một sự kiện kỳ diệu của hai thời đại khác nhau, nhưng hai người
anh hùng, hai vĩ nhân của lịch sử đều lấy mảnh đất Hoàng cung Thăng Long để khởi thủy các vương triều và vun đắp sự tồn tại lâu dài của Nhà nước Việt Nam.
4. Hoàng cung Thăng Long cũng là nơi chứng kiến các kiểu Nhà nước phong kiến Đại Việt hình thành và các kiểu Nhà nước ấy đã quản lý trật tự xã hội bằng luật pháp và các thể chế tương ứng diễn ra trong suốt chiều dài lịch sử 1000 năm. Điều ấy đã chứng minh hùng hồn rằng đó là một Thủ đô có nền văn hiến. Và nền văn hiến ấy có lúc phát triển hết sức rực rỡ, huy hoàng. Ngày nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đã và đang lãnh đạo đưa đất nước tiến ngang tầm thời đại sánh vai
với nhiều Quốc gia trên Thế giới.
5. Hoàng cung Thăng Long trải qua các triều đại phong kiến Đại Việt và 80 năm đô hộ của thực dân Pháp rồi 65 năm Nhà nước Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng đã để lại các tầng văn hóa vật thể và phi vật thể giao thoa, đan xen rất có giá trị mà không nơi nào trên lãnh thổ Việt Nam có được.
6. Hoàng cung Thăng Long nơi đây đã diễn ra nhiều cuộc chiến lịch sử chống xâm lăng hết sức oanh liệt, hào hùng biểu hiện được khí phách của dân tộc mà cũng không nơi nào có được :
Vào Thế kỷ XIII, đế quốc Mông Cổ đã chiếm gần hết Châu Âu, tiến sang Châu Á làm chủ Trung Nguyên. Một dải đất nối dài từ Địa Trung Hải đến Sông Tùng Hoa (của Trung Quốc) với diện tích 12 triệu Km2 đều nằm trong sự thống trị của đế quốc Mông Cổ. Nhà nước Đại Việt cũng không nằm ngoài ý đồ xâm lược của đế quốc Mông – Nguyên.
v Thời Trần đã diễn ra 3 lần cuộc kháng chiến chống Mông - Nguyên. Để giành thắng lợi một đội quân hùng mạnh nhất Thế giới thời ấy, Vua tôi nhà Trần đã thực hiện kế sách vườn không nhà trống để rút về Trường Yên chờ thời cơ giành thế chủ động (kế sách dời bỏ Thủ đô làm vườn không nhà trống sau này vào năm 1812, tướng Cutudov của Nga Hoàng đã áp dụng ở Thủ đô Moskva, nó đã đánh bại Hoàng đế Napoleon. H.Đ).
v Kinh đô Thăng Long nơi đã diễn ra Chiến dịch bao vây tướng giặc Vương Thông nhà Minh ở Thành Đông Quan của nghĩa quân Lê Lợi, bắt kẻ thù phải hạ giáo đầu hàng còn âm vang mãi trong lịch sử.
v Cuộc đại phá 29 vạn quân Thanh của Hoàng đế Quang Trung, làm kinh hoàng triều đình Mãn Thanh và làm cho tên Tổng đốc lưỡng Quảng Tôn Sỹ Nghị phải bỏ thành chạy trốn. Cầu phao bắc qua Sông Hồng bị gẫy, hàng vạn quân Thanh bị chết đuối sẽ mãi mãi là những trang sử oanh liệt không phai mờ của Kinh Thành Thăng Long.
v Hai Tổng đốc Hà Nội : Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu đã tuẫn tiết trong trận chiến chống thực dân Pháp để bảo vệ thành còn ngời sáng anh hùng ca lịch sử dân tộc, lẫm liệt, oai hùng.
v Chiến thắng Cầu Giấy của nghĩa quân cờ đen dưới sự lãnh đạo của Hoàng Kế Viêm và Lưu Vĩnh Phúc đã tiêu diệt hai tên sỹ quan Pháp: Francis Garnièr và Henri Lauren Rivière đã dạn dày chiến trận ở Châu Âu, Châu Phi, nay đến xâm lược Kinh thành Thăng Long đều bị bỏ mạng.
v Trong 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp, để bảo toàn lực lượng cơ quan đầu não của Đảng, Chính phủ Trung ương đã rút lên chiến khu Việt Bắc, còn lại các đơn vị biệt động thành, Trung đoàn Thủ đô, thiếu sinh quân đã lập nên nhiều chiến công hiển hách trong lòng địch: Bốt Hàng Đậu, Phố Hàng Bún, Chợ Đồng Xuân…vv.
v Rồi 12 ngày đêm Điện Biên Phủ trên không, hạ máy bay B52, một loại máy bay được mệnh danh là pháo đài bay hiện đại nhất giai đoạn đó đã làm cho Thế giới kinh hoàng, thán phục. Có thể nói lịch sử chống ngoại bang của Kinh thành Thăng Long là những sự kiện hết sức kỳ diệu tạo nên những tác phẩm trường ca điện ảnh vô cùng hấp dẫn cho hôm nay và mãi mãi mai sau.
v Những thành tựu xây dựng kinh tế, văn hóa, y tế, giáo dục, ngoại giao, khoa học – công nghệ đã để lại những dấu ấn khó phai mờ trong lịch sử 65 năm qua…vv.
II. Ý NGHĨA CHÍNH TRỊ, NGOẠI GIAO SẼ NÂNG CAO VỊ THẾ VIỆT NAM TRÊN TRƯỜNG QUỐC TẾ VÀ TĂNG THÊM UY TÍN CỦA CÁC NHÀ LÃNH ĐẠO CẤP CAO TRONG CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC.
Nếu xây dựng được Hoàng cung Thăng Long thành khu di tích lịch sử và di sản văn hóa lớn nhất Quốc gia sẽ có nhiều giá trị:
1. Nó sẽ là niềm tự hào lớn lao của cả dân tộc Việt Nam, gắn kết các dân tộc thành một khối Đại đoàn kết keo sơn đời đời bền vững. Nó khơi dậy trong trái tim của mỗi người công dân về truyền thống Tổ tiên. Và thức tỉnh trong lòng mỗi con người ý thức dân tộc, anh hùng, dũng cảm; dù ở bất cứ nơi đâu họ cũng hướng về cội nguồn dân tộc . Những ý chí tinh thần quật khởi ấy liên kết lại sẽ biến thành sức mạnh vật chất vô biên đè bẹp mọi kẻ thù khi Tổ quốc bị xâm lăng. Nhất là đối với thế hệ trẻ hôm nay (thế hệ 7x, 8x, 9x), khi họ sinh ra và lớn lên trong nền kinh tế thị trường “đắm mình với vật chất”, việc giáo dục truyền thống lịch sử dân tộc ở các trường học còn hạn chế, nếu một khi họ được đến thăm quan nơi Hoàng cung Thăng Long, được chứng kiến những hiện vật lịch sử và giá trị truyền thống của cha ông để lại cùng những tác phẩm điện ảnh, sa bàn điện tử sẽ dựng lại lịch sử dân tộc một cách sinh động, chắc chắn sẽ là bài học vô giá để cảm hóa tâm hồn, tư tưởng thế hệ trẻ hôm nay và mai sau về lòng yêu nước, tự hào, tự tôn dân tộc.
2. Xây dựng tái thiết được Hoàng cung Thăng Long sẽ là điểm đến của bạn bè Thế giới tới Việt Nam. Nó sẽ có giá trị làm tăng thêm uy tín, vị thế của Việt Nam trên trường Quốc tế trong quan hệ ngoại giao. Và cũng là dịp để giới thiệu, quảng bá nền văn hóa Việt Nam giàu bản sắc dân tộc với cộng đồng Thế giới. Việt Nam sẽ giao lưu và làm bạn được với nhiều Quốc gia trên trường Quốc tế.
Đây cũng là kế sách giữ nước bảo vệ biên giới Quốc gia của một nước nhỏ tồn tại bên cạnh nước lớn để giữ thế cân bằng, đối trọng. Việt Nam càng có nhiều Nguyên thủ, chính khách các nước đến thăm và có nhiều tập đoàn tư bản tài chính đến đầu tư thì đó sẽ là “lá chắn” vô cùng giá trị, góp sức mạnh tổng hợp cho Tổ quốc bảo vệ bình yên biên giới Quốc gia.
3. Đây sẽ là công trình vĩ đại, nổi tiếng Thế giới dâng lên những ngày Đại lễ lớn của đất nước:
- Quốc khánh 2 – 9 – 2015, Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam tròn 70 tuổi.
- Mừng Đảng quang vinh tròn 85 tuổi (1930 – 2015).
- Chào mừng Đại hội ĐCSVN toàn quốc lần thứ 12. Đúng vừa tròn 1
con giáp của lịch Can – Chi. Con giáp này là giá trị tiềm ẩn đầy ý nghĩa triết học phương Đông.
- Uy tín chính trị, công đức của các nhà lãnh đạo Đảng – Nhà nước ngày càng được củng cố ăn sâu vào quần chúng nhân dân cả nước, bạn bè Quốc tế. Và sẽ mãi đi vào lịch sử như một mốc chói lọi, sáng ngời, vì đã xây dựng được một kỳ quan của Thế giới góp phần vào lịch sử văn minh nhân loại.
III. VỀ GIÁ TRỊ KINH TẾ
1. Hoàng cung Thăng Long nếu được xây dựng, thực sự sẽ là công trình kết hợp kinh tế trong văn hóa và văn hóa trong kinh tế. Nó sẽ là nguồn thu lợi nhuận cho Tổ quốc mãi mãi mai sau. Nếu quản lý tốt, sáng tạo trong tổ chức, điều hành và chọn đúng người quản lý sẽ thu về cho đất nước mỗi năm hàng tỷ đôla.
2. Hoàng cung Thăng Long được tái thiết xây dựng và khi đi vào hoạt động
nó sẽ giải quyết công ăn việc làm cho vài chục vạn người lao động. Trong đó sẽ có hàng vạn lao động trí thức, kỹ thuật và tay nghề công nghệ cao. Cụ thể, nó sẽ tạo điều kiện cho hàng ngàn Kiến trúc sư, Kỹ sư xây dựng, Họa sỹ, Kỹ sư công nghệ học, Kỹ sư kinh tế, Văn nghệ sỹ (Âm nhạc, văn học, vũ đạo, sân khấu, điện ảnh, nhiếp ảnh, hội họa…vv), Võ sư có công ăn việc làm. Một mai có Hoàng cung Thăng Long ra đời sẽ làm sống dậy các hoạt động của ngành Văn hóa – Nghệ thuật nước nhà. Nhiều đoàn nghệ thuật sẽ được thường trực biểu diễn phục vụ khách du lịch. Trong Hoàng cung sẽ có những hạng mục công trình được xây dựng để phục vụ sân khấu ngoài trời, rạp chiếu phim, rạp biểu diễn nghệ thuật truyền thống (tuồng, chèo, cải lương, múa rối nước, biểu diễn võ thuật…vv). Đặc
biệt, ngành nghệ thuật thứ 7 sẽ có “đất” phát triển. Nếu ta xây dựng được những tác phẩm điện ảnh có kịch bản văn học hay và có đạo diễn tài ba, dàn diễn viên giỏi giang để đi vào các đề tài lịch sử chiến trận, lịch sử các vương triều sẽ vô cùng hấp dẫn. Chẳng hạn, dựng lại các bộ phim, điện ảnh – 3D (không gian 3 chiều - điện ảnh nổi Hologram) về lịch sử và các chiến trận chiến thắng ngoại bang trong lịch sử:
- Lịch sử các vương triều.
- Ba lần chiến thắng quân Nguyên.
- Chiến thắng Tây Kết, Vạn Kiếp, Hàm Tử (bắt sống Toa Đô), Chương Dương (cướp giáo giặc).
- Chiến thắng Đông Bộ Đầu (Dốc Hàng Than).
- Bao vây Thành Đông Quan- bắt tướng giặc Vương Thông phải đầu hàng.
- Hoàng đế Quang Trung đại phá quân Thanh.
- Chiến thắng Cầu Giấy.
- Tổng đốc Nguyễn Tri Phương và Tổng đốc Hoàng Diệu tuẫn tiết bảo vệ
Thành Hà Nội hoặc tác phẩm Lý Thái Tổ dời đô về Thăng Long kết hợp với hiện thực và thần thoại sẽ là tác phẩm vô giá để giới thiệu với Thế giới. Nếu làm tốt, Việt Nam sẽ là nước giới thiệu lịch sử của Quốc gia mình bằng điện ảnh ra Thế giới. Đây là nghệ thuật thứ 7 vô cùng hữu ích để gắn kết với bạn bè trên khắp năm châu.
2. Nếu có một Hoàng cung Thăng Long được tái thiết ra đời sẽ giúp cho một số ngành tiểu thủ công mỹ nghệ truyền thống có cơ hội được phục hồi và sống lại như nghề Dệt thổ cẩm Trích Sài, trúc Tây Hồ, giấy dó Bưởi, tranh Đông Hồ Hàng Trống, nghề đúc đồng Ngũ Xã, gốm sứ Bát Tràng, nghề dệt thảm, mây tre đan, thêu ren, đồ gỗ, khảm trai, sơn mài, Khảm bạc, kim hoàn...vv. Và hàng trăm nghề thủ công mỹ nghệ tinh xảo khác tiếp tục tồn tại và phát triển để phục vụ khách du lịch.
3. Song song với nghề tiểu thủ công mỹ nghệ được phục hồi thì một ngành dịch vụ khác không kém phần quan trọng đó là nghề văn hóa ẩm thực của Hoàng cung Thăng Long. Chỉ riêng dịch vụ văn hóa ẩm thực Thăng Long, người ta có thể sáng tạo ra hàng trăm phương thức dịch vụ, hoạt động. Chẳng hạn như: Có thể tổ chức một bữa tiệc Hoàng cung Thăng Long cho hàng nghìn khách du lịch thưởng lãm bằng những món ăn yến tiệc cung đình. Ở Côn Minh, Vân Nam, Nhà nước Trung Quốc đã cho làm những bữa tiệc như vậy từ nhiều năm nay để thu lợi nhuận. Hoặc tổ chức những bữa tiệc cho các nhà tư bản giàu
sang gọi là “yến tiệc Vua ban” và bữa yến tiệc ấy diễn ra từ đầu đến cuối đúng như cung cách hành lễ, lễ nghi của Hoàng gia chốn cung đình. Việc giới thiệu văn hóa ẩm thực ở Hoàng cung Thăng Long có thể được tổ chức với vô vàn các hình thức khác mà Việt Nam là kho tàng. Ví thể, dựng lại các bữa tiệc đúng như trong nghi thức Hoàng cung khi xưa:
- Tiệc chúc mừng Vua đăng quang.
- Tiệc chúc mừng khúc ca chiến thắng khải hoàn.
- Tiệc chúc mừng Hoàng Thái tử đăng cơ.
- Tiệc chúc mừng tước phong Hoàng hậu.
- Tiệc tiếp sứ giả.
- Tiệc yến Vua ban cho Trạng nguyên.
- Tiệc phong hàm phẩm, chức tước cho các quan đầu triều…vv.
- Đặc biệt khách du lịch Châu Âu, Châu Mỹ, Châu Phi rất thích khám phá những gì thuộc về văn hóa bản địa, văn hóa Á Châu mà nơi Hoàng cung Thăng Long có thể tổ chức nhiều tiết mục mới lạ để đáp ứng nhu cầu thị hiếu của họ.
- Theo tâm lý chung của cả Châu Á, Châu Âu, khách du lịch tới nơi đâu, khi ra về đều muốn mua một sản phẩm vật chất gì đó làm quà lưu niệm. Đây chính là động lực để các ngành thủ công mỹ nghệ, công nghệ, dịch vụ phát triển do nhu cầu đời sống thương trường đòi hỏi.
5. Từ Hoàng cung Thăng Long sẽ phối hợp với cảnh quan Chùa Một Cột, khu di tích Phủ Chủ tịch, Lăng Bác và Bảo tàng Hồ Chí Minh, Quảng trường Ba Đình, Khu đài tưởng niệm các anh hùng liệt sỹ sẽ liên hoàn thành một khu quần thể di tích tổng hợp. Và do đó, tạo ra một không gian văn hóa có giá trị lớn nhất Quốc gia. Đồng thời, tái thiết Hoàng cung Thăng Long cũng là giữ lại giá trị lịch sử của cả một dân tộc có hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước.
Tóm lại: Xây dựng, tái thiết Hoàng cung Thăng Long là cơ trời, vận nước, là thời cơ 1000 năm có một. Thời khắc lịch sử đã điểm, các yếu tố Thiên thời, địa lợi, nhân hòa đã hội đủ. Nếu bỏ lỡ cơ hội, dân tộc sẽ mất đi một kho vàng vô tận.
IV. DIỆN TÍCH QUY HOẠCH HOÀNG CUNG THĂNG LONG
Lấy dốc Ngọc Hà làm điểm xuất phát. Từ đây, sẽ kẻ một đường thẳng nối Dốc
Ngọc Hà với Phố Đội Cấn. Diện tích Hoàng cung Thăng Long được giới hạn bằng 4 hướng Đông – Tây – Nam – Bắc như sau:
1. Phía Bắc – Tây Bắc – Tây – Tây Nam:
Diện tích lấy từ Đình Ngọc Hà - toàn bộ khu ao Đình Ngọc Hà ; từ góc ao Đình Ngọc Hà tiếp giáp ngách 158, kẻ một đoạn thẳng của ngõ này ngược lên phía Tây – Tây Bắc chừng 25m gặp ngõ 135 Phố Đội Cấn nối sang (trước đây gọi là ngõ 15). Toàn bộ diện tích nằm phía tay trái từ Đình Ngọc Hà gióng sang thuộc diện tích quy hoạch của Hoàng cung Thăng Long. Từ ngõ 135 Đội Cấn nối tiếp các số nhà bên số lẻ từ 129 lùi đến số 1 Phố Đội Cấn, cắt Phố Ngọc Hà và toàn
bộ khu Chợ Ngọc Hà tiếp giáp cắt ngang Phố Sơn Tây nằm trong quy hoạch.
1. Phía Tây – Tây Nam – Nam :
Đoạn tiếp nối từ Phố Ngọc Hà (Chợ Ngọc Hà) gặp Phố Sơn Tây (từ số nhà 52) chạy suốt đến Vườn hoa Sơn Tây và từ Vườn hoa Sơn Tây nối Phố Ông Ích Khiêm gặp Phố Lê Hồng Phong nằm trong diện tích Hoàng cung Thăng Long.
Ghi chú : Tại sao lấy diện tích của khu Làng Ngọc Hà, Hữu Tiệp, khu vực Phố Ông Ích Khiêm, một số số nhà của Phố Sơn Tây đây là diện tích vào thời nhà Lý nằm trong số Thập tam trại mà dân Làng Lệ Mật khi xưa được Vua ban đến lập trại. Khu trại này nằm ở cửa thành phía Tây (gọi là Quảng Phúc) của Hoàng cung nhà Lý. Các địa điểm đó ảnh hưởng trực tiếp phong thủy của Sông Ngọc Hà (Sông Ngọc) và hai ngọn núi : Sưa, Nùng. Lúc bấy giờ Sông Ngọc Hà chảy từ Cửa Bắc qua Hoàng cung là Phố Hoàng Diệu đến Cột Cờ, một nhánh chảy dọc theo Phố Ngọc Hà vào khu Vườn Bách Thảo, sau bị san lấp nay chỉ còn một số hồ và vũng trong Vườn Bách Thảo. Thuở ấy, nơi đây gọi đó là Núi Sưa, đã viết sai thành Núi Nùng. Núi Nùng chính là ở vị trí đối diện trước cổng nhà Đại tướng Võ Nguyên Giáp bây giờ. Thời gian trôi đi, nó đã bị san phẳng. Toàn bộ diện tích dự kiến quy hoạch trên đây nằm trong địa phận phong thủy của Rốn Rồng Long Đỗ. Riêng các số nhà và hộ dân cư nằm trong Phố Ông Ích Khiêm trước đó đã có trong quy hoạch dự kiến mở rộng của Khu Bảo tàng Hồ Chí Minh trước đây.
2. Phía Bắc - Đông Bắc :
Điểm xuất phát từ Phố Ngọc Hà gặp Phố Hoàng Hoa Thám và từ Phố Hoàng Hoa Thám đến ngã tư Đường Hùng Vương nối tiếp các số nhà 69, 67, 65, 63, 61, 59, 57, 53, 51, 51B Phố Phan Đình Phùng và qua đoạn Bắc Môn gặp Đường Nguyễn Tri Phương (phía tay phải Phố Phan Đình Phùng).
3. Phía Đông - Đông Nam – Nam :
Từ số 2, 4, 6, 8, 10, 12, 14, 16 Đường Nguyễn Tri Phương tới nút giao nhau với Đường Điện Biên Phủ, dọc Đường Điện Biên Phủ từ Bảo tàng quân đội (cũ) và các số nhà 28, 28D, 28H, 30, 32, 34, 36 nối Phố Lê Hồng Phong, dọc Phố Lê Hồng Phong (có các số nhà bên chẵn từ số 2, 4, 6, 8, 12, 14, 16, 18, 18E, 20), gặp Phố Ông Ích Khiêm. Tất cả các đường, phố trình bày trên đây nằm trong diện tích Hoàng cung Thăng Long (xin xem bản đồ kèm theo).
Trên diện tích của Hoàng cung Thăng Long chỉ giữ lại và bảo tồn nguyên
trạng các công trình như sau :
- Chùa Một cột
- Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh
- Bảo tàng Hồ Chí Minh
- Khu di tích Phủ Chủ tịch
- Khu Vườn Bách Thảo
- Đường Bắc Sơn
- Khu đài tưởng niệm các anh hùng liệt sỹ.
- Hệ thống các đường, phố giao thông đã trải nhựa giữ nguyên hiện trạng.
- Vườn hoa thảm cỏ cây cảnh và Quảng trường Ba Đình. Tất cả các di tích, di sản nằm trên trục đường Thần Đạo Bắc Lâu, Hậu Lâu nền Điện Kính Thiên, Đoan Môn (Ngũ Môn) tới Cột Cờ giữ nguyên hiện trạng nằm trong quần thể liên hoàn của Hoàng cung Thăng Long.
Giữ nguyên hiện trạng các cơ quan quyền lực cao nhất của Đảng – Nhà nước như:
- Tòa nhà Quốc hội đang xây.
- Bộ chính trị – khu nhà Văn phòng Trung ương số 1 Hùng Vương và Nguyễn Cảnh Chân.
- Khu vực làm việc của Thủ tướng Chính phủ số 1 Hoàng Hoa Thám.
- Khu vực làm việc của Phủ Chủ tịch.
- Nhà công vụ đặc biệt dành cho Nguyên thủ Quốc gia.
- Tất cả trụ sở các cơ quan Bộ, Ban, Ngành (không thuộc diện giữ nguyên hiện trạng), đặc biệt là các số nhà thuộc các đường, phố : Phan Đình Phùng từ các số nhà 69, 67, 65, 63, 61, 59, 57, 53, 51, 51B đến Bắc Môn ; Phố Hoàng Diệu bên số lẻ từ số 1, 3, 3B, 5 ...15, 17, 19, bên số chẵn số 2, 4, 6B và một số số nhà Đường Điện Biên Phủ, thuộc đất quy hoạch của Hoàng cung Thăng Long.
Đề án xây dựng Hoàng cung Thăng Long phải đảm bảo các nguyên tắc cơ bản :
1- Tất cả các cơ quan quyền lực cao nhất của Đảng - Nhà nước phải nằm trong Hoàng cung Thăng Long. Đó là một nguyên lý phong thủy bất di bất dịch. Nơi đây, còn là sự kế tục, nối tiếp truyền thống lịch sử của Tổ tiên hàng nghìn năm để lại.
2- Một khu vực có khí hậu tốt. Bức xạ của các nguyên tố Vũ trụ trong lòng
đất trải qua hàng nghìn năm đã chứng minh không có độc hại. Yếu tố Âm – Dương trong cấu trúc không gian khí quyển hài hòa. Có lá phổi Hồ Tây điều hòa tạo ra một vùng vi khí hậu mát mẻ và cảnh quan đẹp đẽ nhất Thủ đô. Bức xạ của các tia tử ngoại Mặt trời không cao, không ảnh hưởng tới sức khỏe con người.
3- Đặc biệt là ít bị ảnh hưởng của động đất từ Vùng Vân Nam dư chấn sang. Do có Hồ Tây làm “Bức bình phong bảo vệ” . Điều đó được ghi chép, kiểm chứng về các trận động đất đã diễn ra ở Thăng Long - Hà Nội (hàng nghìn năm trước đó). Bởi vậy, có thể kết luận có căn cứ khoa học rằng: Đây là khu vực địa lý, khí hậu rất có lợi cho các đồng chí lãnh đạo Đảng – Nhà nước cao cấp giữ gìn được sức khỏe, làm việc minh mẫn, tăng thêm tuổi thọ.
Nhân trình bày bản đề án này, chúng tôi cũng xin được góp ý kiến về bản đề án của một Bộ, Ban ngành nào đó trước đây đã trình Chính phủ về dự kiến đưa tất cả các cơ quan Đảng – Nhà nước Trung ương lên vùng núi Ba Vì. Có thể nói, đó là đề án hoàn toàn thiếu tính khả thi và tính khoa học:
1. Ba Vì là đỉnh núi cô phong. Nó chỉ có Dương và không có Âm. Thừa Dương thiếu Âm thì sao con người có thể sống và làm việc được. Về phong thủy là hoàn toàn bất lợi cho người làm việc, ảnh hưởng tới sức khỏe vì nguồn sinh khí Âm cạn kiệt chỉ có Dương, hỏa bốc lên cao, người sẽ mỏi mệt suốt ngày choáng váng đau đầu. Hoạt động của hệ thống luân sa trong con người giao hòa với thiên nhiên Vũ trụ diễn ra không bình thường, không khai thông được huyệt đạo kinh mạch do yếu tố môi trường, địa từ trường của Trái đất gây ảnh hưởng.
2. Bức xạ độc hại của các nguyên tố Vũ trụ trong lòng đất bốc lên khá lớn, khí
núi (lam chướng) là thứ khí độc hại từ lòng đất bốc ra tác động không ít tới sức khỏe con người.
3. Ở khu vực này, bức xạ của ánh sáng Mặt trời (các hạt Photong) dội chiếu xuống mặt đất rất mạnh, mật độ tia tử ngoại tăng do đó dễ dẫn đến ung thư da và dễ mắc chứng bệnh thần kinh.
4. Đây là vùng đất chịu ảnh hưởng trực tiếp động đất từ Vân Nam - Trung Quốc dư chấn sang. Vì nó nằm trong khu vực kẽ nứt của Sông Đà. Mặt khác, bản thân của vùng núi này ra đời là kết quả trào dâng của ngọn núi lửa hoạt động vào Kỷ Đệ tứ (cách đây vào khoảng từ 20 đến 30 triệu năm), nay nó vẫn nằm trong vùng có khả năng hoạt động trở lại của núi lửa sau nhiều năm yên nghỉ.
5. Vùng đất này trong nguồn nước và đất có nhiều nguyên tố vi lượng như: Sắt, Kẽm, Magie, Bo, Mangan, Đồng, Thủy Ngân…vv. Do vậy, người dân ở vùng này ăn uống nguồn nước đó nên cách phát âm ở đây rất nặng, có âm tiết phát ra thiếu
dấu huyền (như Con bò vàng lại nói là Con bo vang, Ba Vì thì lại nói là Ba Vi. Một vùng đất trình độ dân trí còn rất thấp, việc giáo hóa văn minh và lối sống xã hội chủ nghĩa còn phải mất rất nhiều năm.
6. Đặt trụ sở của các cơ quan Đảng – Nhà nước Trung ương ở đây là cắt đứt toàn bộ (hay đoạn tuyệt) với truyền thống lịch sử của Tổ tiên về một vùng đất địa linh nhân kiệt của Hoàng cung Thăng Long.
Bản đề án xây dựng Khu hành chính Quốc gia tại Ba Vì đã thiếu hẳn kiến thức cơ bản của các ngành khoa học liên quan như: Địa lý phong thủy, địa lý tự nhiên, địa lý cảnh quan, vật lý phóng xạ, vật lý học Âm – Dương Ngũ hành. Và đặc biệt
là thiếu hẳn kiến thức lịch sử dân tộc, phong tục tập quán, xã hội học…vv.
Theo quan điểm nghiên cứu của chúng tôi, khu vực Ba Vì chỉ là vùng đất phù hợp để Lăng mộ rất tốt. Nơi đây rất cao ráo, không ẩm ướt nên hài cốt đựng trong tiểu sành, quan quách không bị các loại vi khuẩn yếm khí, tạp khí xâm hại phá
hỏng hài cốt. Sự tồn tại của các thực thể vật chất này sẽ giữ được lâu dài. Đồng thời cũng là nơi linh hồn (theo Nguyên lý Âm – Dương và Định luật bảo toàn năng lượng của Lômônôsov) thoát xác được nhanh để tiêu diêu trong không gian Vũ trụ - Thiên hà. Nếu một mai Khu Nghĩa Trang Mai Dịch có nhu cầu chuyển dịch thì đây sẽ là vùng đất lý tưởng và đạt tất cả các tiêu chí về phong Thủy và vệ sinh môi trường.
Một nguyên tắc quan trọng nữa của Hoàng cung Thăng Long khi tái thiết nó sẽ
có tác dụng hỗ trợ, tô điểm, cộng hưởng làm tăng uy tín, quyền lực của các cơ quan lãnh đạo Đảng – Nhà nước trong nhân dân và khách nước ngoài.
V. PHÂN BỔ DIỆN TÍCH QUY HOẠCH HOÀNG CUNG THĂNG LONG VÀ CÁC HẠNG MỤC CÔNG TRÌNH.
A. CÁC HẠNG MỤC CÔNG TRÌNH CHÍNH.
1. Diện tích khu Vườn Bách Thảo, Bộ nông nghiệp, khu vực Làng Ngọc Hà, Hữu Tiệp, Chợ Ngọc Hà, các số nhà ở Phố Ông Ích Khiêm, Phố Sơn Tây, toàn bộ diện tích này tương đương khoảng trên 13 ha, dành cho 62 hạng mục công trình lớn và nhỏ của 62 tỉnh, thành phố trong cả nước. Từ diện tích trên được phân bổ cho mỗi tỉnh (tỉnh nhỏ nhất là 1000 m2; tỉnh, thành phố lớn nhất tới 3000 m2) trên nền đất Hoàng cung Thăng Long này sẽ xây dựng những công trình kiến trúc tiêu biểu của tỉnh mình. Các tỉnh, thành phố mang về đây những đặc sản cây, con (trừ loại thú lớn) quý hiếm thuộc tinh hoa, đặc trưng mỗi vùng, miền của đất nước. Khách du lịch đến Hoàng cung Thăng Long thăm cảnh quan nơi này sẽ thấy hết hình ảnh của cả đất nước Việt Nam thu nhỏ lại.
Có các di sản văn hóa, di tích lịch sử tiêu biểu - đặc sản của mỗi vùng, miền
đất nước, biên giới, hải đảo được mang về xây dựng trên đất Hoàng cung là hướng trái tim khối óc của công dân mọi miền Tổ quốc về với Thủ đô và ngược lại.
Ghi chú: Vào thời Lý, sau khi Lý Thái Tổ mất liền xảy ra loạn Tam Vương. Nhờ các đại thần như Lê Phụng Hiểu đã dẹp xong loạn Tam vương và Lý Phật Mã (Lý Thái Tông) đã lên ngôi Hoàng đế kế tục sự nghiệp của Vua cha Lý Công Uẩn. Để trị quốc, an dân nhà Vua đã ban sắc chỉ cho các quan hàng tỉnh, hàng năm phải lấy đất từ nơi tỉnh mình cai trị về Hoàng cung Thăng Long dâng lên thần Đồng Cổ (Đền Đồng Cổ ở Phố Thụy Khê, Phường Bưởi, Quận Tây Hồ) và thề rằng: “Làm tôi phải trung với Vua, làm con phải hiếu với cha mẹ, ai sai lời trời chu đất diệt”. Vì vậy, trải nhiều năm triều đại nhà Lý vẫn vững vàng thịnh vượng. Ngày nay, mỗi tỉnh, thành phố có một biểu tượng của quê hương mình tại Hoàng cung Thăng Long sẽ là động lực thúc đẩy các vị lãnh đạo tỉnh, thành phố tăng thêm trách nhiệm của mình đối với dân với nước. Đồng thời, kích thích các tỉnh, thành phố thi đua phát triển đồng hành cùng dân tộc.
2. Khu vực trọng tâm Hoàng cung Thăng Long
Phía Bắc từ góc đường số 1 Hoàng Diệu gặp Đường Phan Đình Phùng tiếp nối với 51B Phan Đình Phùng qua Bắc Môn tới góc Đường Nguyễn Tri Phương và chạy hết con đường này. Gồm toàn bộ các số nhà bên chẵn số 2, 4, 6, 8, 10, 12, 14, 16 Đường Nguyễn Tri Phương.
Phía Bắc – Tây Bắc – Tây dọc Phố Hoàng Diệu cắt nhau ở Đường Điện Biên Phủ.
Phía Nam - Đông Nam là Đường Điện Biên Phủ. Đây là trục dọc chính tâm hay còn gọi là Thần đạo (theo trục Bắc – Nam) nối từ cửa Bắc Môn qua Đoan Môn (còn gọi là Ngũ Môn) tới Cột Cờ, có tổng diện tích sơ bộ tính toán còn lại 138.000m2. Trên diện tích này, có các di tích, di sản của “Thành cổ” giữ nguyên hiện trạng. Nay chỉ bổ sung 5 công trình lớn gồm:
2.1. Phục chế, xây dựng lại Điện Kính Thiên trên nền đất cũ:
Hướng chính Điện của tòa điện quay về hướng Nam - Đông Nam có diện tích (S) với số đo dài 360m nhân với rộng 120m (thông thủy) gồm 2 tầng, toàn bộ xây dựng
theo môtip kiến trúc triều Lý (có đầu đao và mái cong):
- Tầng 1: Cao từ 6m tới 7.5 m, tất cả vật liệu kiến trúc bằng gỗ quý. Cột, dầm, xà, quá giang, mè, dui, thông tử đều bằng gỗ quý Đinh, Lim, Táu, Sến, Cẩm hương, Giã lai, Vàng tâm; lắp ráp đề mông táp (có mộng). Cột đặt trên trụ đá điêu khắc tỉa vân hoa chanh, cánh sen, trên nóc có trang trí Long – Ly – Quy – Phượng, các đầu mái đao cong; có hàng cột hiên và mái hiên che mưa che nắng bảo vệ hệ thống vách tường bằng gỗ. Trên mái lợp chồng diêm, tận dụng ánh sáng thiên nhiên (giống như mái Chùa Tây Phương). Dùng ngói Lưu Ly (ngói ống Âm – Dương). Tường 4 phía bằng gỗ xẻ, bào nhẵn điêu khắc chạm trổ các loại hoa và chim
muông điểu theo họa tiết hoa văn của mỗi triều đại.
Nền sàn gỗ xẻ đậu dày 12cm. Cửa ra vào trong một chừng mực nhất định có
thể dung hòa với cửa bức bàn thời Lê sơ. Tòa Điện Kính Thiên* này được phân chia bố cục theo các triều đại:à
¹. Tám Triều Vua Lý
¹. Mười hai Triều Vua Trần
¹. Hai mươi bảy Triều Vua Lê
¹. Mười hai đời Chúa Trịnh
¹. Nhà Tây Sơn, điện thờ Hoàng đế Quang Trung
Do diện tích của khu Hoàng cung có hạn, ta không thể phục chế lại tất cả các cung điện của thời Lý – Trần – Lê mà ở đây chỉ nên phục chế Điện Kính Thiên (có tính biểu tượng đặc trưng của các vương triều phong kiến Đại Việt). Để từ đó nhằm ghi lại dấu ấn lịch sử một cách tổng quát.
Từ tòa Đại Điện Kính Thiên được phân chia thành nhiều đại sảnh, mỗi gian đại sảnh thuộc mỗi triều đại có bức đại tự lớn bằng chữ Hán sơn son thiếp vàng, chạm trổ hoa văn xung quanh các đường viền và đặt chữ nổi ở giữa, treo giữa đại tiền sảnh. Bên trong điện thờ trang trí trên hàng cột và các xà ngang, xà dọc là các bức Hán tự hoành phi, câu đối bằng gỗ tốt được sơn son như ở bức chính điện.
Trong điện thờ là hệ thống tượng gỗ các vị Vua được chạm khắc, sơn son thiếp vàng và được đặt trên các khám mạ vàng hoặc ngai. Tất cả đều được chạm khắc tinh xảo theo môtip hội họa thuộc về mỗi triều đại. Đằng sau lớp tượng thờ Vua, Chúa là hàng tượng thờ các đại công thần của từng triều đại. Họ được mặc trang phục, phẩm phục, mũ, mão, cân, đai theo đúng quy chế lễ nghi của thời đại đó. Ví dụ : Trong gian thờ các Hoàng đế triều Lý đằng sau là lớp tượng thờ Đào Cam Mộc, Lý Thường Kiệt, Tô Hiến Thành, Lý Đạo Thành, Lê Phụng Hiểu, Nguyên phi Ỷ Lan...vv.
Trong Đại Điện Kính Thiên, giữa khu vực trung tâm là diện tích 120m2 gọi là Điện ngọc, nơi Hoàng đế thiết triều (nghị triều), trên là ngai vàng của Hoàng đế, phía trước bên tả, bên hữu là bách quan văn võ ngồi theo thứ bậc : Thừa tướng, Tể tướng, Cửu phẩm...đến Nhất phẩm để nhận sắc chỉ, chiếu chỉ của Hoàng đế hoặc bàn nghị sự của triều đình. Phần này là hệ thống tượng gỗ được tạo tác
tinh xảo, mạ dát vàng công phu tạo nên một giá trị thẩm mỹ cao với tài hoa tay
nghề của nghệ nhân.
-Tầng hầm : Là hệ thống không gian có tác dụng thông thoáng chống ẩm ướt
cho tầng 1. Cao khoảng 3m đến 3.3m. Vật liệu thiết kế bằng bê tông cốt thép giả
vân gỗ. Trong tầng hầm có các gian trình bày hiện vật như sau :
¹. Hiện vật khảo cổ khai quật qua các thời kỳ : Gốm, Men, Sành, Sứ, Gạch, Đất nung, Chim muông thú, Tiền cổ, Súng thần công...vv (trưng bày trên 1 triệu hiện vật đã tìm thấy) theo niên đại của các vương triều.
¹. Hệ thống sa bàn điện tử:
a. Sa bàn chiến thắng quân nhà Tống trên Sông Như Nguyệt.
b. Sa bàn 3 lần chiến thắng quân Nguyên (1858 – 1885 – 1888) với các trận Tây Kết, Vạn Kiếp, Chương Dương, Hàm Tử và chiến thắng Đông Bộ Đầu (Dốc Hàng Than).
c. Sa bàn bao vây Thành Đông Quan, bắt Tướng Vương Thông nhà Minh phải đầu hàng.
d. Sa bàn chiến thắng Tốt Động, Trúc Động, chiến thắng Xương Giang (Lạng Giang).
đ. Sa bàn Hoàng đế Quang Trung đại phá 29 vạn quân Thanh và cảnh Tôn Sỹ Nghị cùng tàn quân vượt cầu phao bắc qua Sông Hồng chạy trốn. Trong đó có cảnh cầu phao gẫy hàng vạn quân Thanh bị chết đuối.
e. Sa bàn chiến thắng Ngọc Hồi, Hạ Hồi, Đống Đa.
Song song với Điện Kính Thiên: Hai tòa nhà Tả vu, Hữu vu được xây dựng
như sau:
*. Tòa nhà Tả vu (lúc bước vào chính Điện nằm ở tay phải – phía Lầu Công chúa bây giờ).
Tòa nhà này có tên gọi Cung Hoàng hậu và Lầu Công chúa. Có diện tích : chiều dài 120m x rộng 60m (thông thủy), xây 1 tầng. Hình thức kiến trúc vật liệu dựa theo nguyên tắc của Đại Điện Kính Thiên. Lầu cao từ 3.5m đến 4.5m, mái đầu đao vút cong, chồng nóc có trang trí phượng hoàng chầu nguyệt. Toàn bộ vật liệu xây dựng bằng gỗ quý. Sàn lát gạch Bát Tràng hoặc gạch Giếng Đáy có khắc vân hình hoa cúc, hoa chanh, hoa lan, hoặc hình Lý ngư vọng nguyệt hay chim muông thú quý. Mái lợp ngói ống Âm – Dương. Trên tường có nhiều họa tiết và có tranh Tứ quý. Tòa lầu cửa hướng chính quay về phía Tây – Tây Bắc. Lưng tọa Đông Nam.
Trước lầu có đại tự bằng chữ Hán lớn: Cung Hoàng hậu, Khu vực Lầu Công chúa bức đại tự nhỏ hơn.
Cung Hoàng hậu và Lầu Công chúa nội thất được trang trí bằng những bức hoành phi câu đối và các họa tiết hoa văn cầu kỳ gây cảm giác lộng lẫy, xa hoa đài các (đã có bản thiết kế và nội dung chi tiết chúng tôi không trình bày kỹ trong văn bản này). Ngày xưa, Cung Hoàng hậu có 9 nghinh phong lầu, nay được tái
thiết, xây dựng chỉ mang tính chất biểu tượng cùng các đồ dùng thường nhật: Giường Hoàng hậu (bằng loại gỗ quý có khảm trai, dát ngọc, dát vàng và nhiều
đường nét chạm trổ điêu khắc cầu kỳ về các loại hoa văn).
Giường Công chúa (bằng loại gỗ tốt có khảm trai, dát bạc và chạm trổ hoa văn ở phía đầu giường).
Chăn, màn, đệm, gối, rèm che, trướng phủ đều là những loại lụa, gấm vóc quý giá dành riêng cho chốn Hoàng cung.
Ngoài ra, còn nhiều các vật phẩm đồ dùng hàng ngày của Hoàng hậu và Công chúa như: Gương, Lược, Trâm cài đầu, các loại Hài, Tủ quần áo, Phấn sáp trang điểm…vv, gắn liền với các trang phục trên là các hoạt động về thế giới tinh thần như nhạc cụ, sáo, tỳ bà, đàn thập lục…
*. Tòa nhà Hữu vu gọi là Lầu Hoàng đế và Nhà công đức
Tòa nhà này tọa Bắc – Tây Bắc. Mặt chính quay về hướng Nam - Đông Nam có diện tích dài 120m x rộng 60m (thông thủy). Hình dáng kiến trúc vật liệu xây dựng giống như Cung Hoàng hậu và Lầu Công chúa, riêng nóc của tòa nhà có
2 con rồng chầu Mặt trời.
Tòa nhà này được phân thành 2 khu vực:
a. Lầu Hoàng đế: nơi Vua ở, có trang trí nội thất hết sức vương giả, hoành tráng, uy nghi, lẫm liệt đúng là nơi ở của Thiên tử (con trời) – (đã có bản thiết kế chi tiết). Lầu được bố trí chính giữa gian là bức đại tự lớn có 9 con rồng chầu Mặt trời. Trong phòng có trướng loan, rèm che như 9 lớp bằng lụa vàng óng ả. Trước cột xà, ngang dọc có khắc họa những bức Long – Ly – Quy – Phượng. Sàn lát gạch tạo hình rồng ôm Mặt trời. Giường được tạo tác bằng gỗ. Đầu giường và hồi giường được tạo tác tinh xảo có khảm trai, dát vàng. Đầu giường là bức cửu long tranh châu. Và các tiện nghi trang trí khác như: Gươm, Đao, Mũ, Áo, Cân đai,
Hia, Hài. Đặc biệt là bộ trang phục đại triều, thường triều của Hoàng đế.
b. Nhà công đức là tòa nhà xây dựng có diện tích (chiếm 2/3 tòa nhà Hữu vu) nơi dùng để tưởng niệm tất cả những vị quan và người hiền tài thanh liêm, đức độ làm lợi cho quốc kế, dân sinh. Đó là những nhà công đức lớn trong lịch sử dân tộc. Họ đã cống hiến cho Tổ quốc những nguồn tài sản nhà cửa, đất đai, ruộng vườn, tiền bạc khi Quốc gia hữu sự, góp công, góp của để xây dựng các công trình lớn. Ví dụ như một số Bà hoàng, vợ các Chúa Trịnh (Bà Chúa Chè, Bà Trịnh Thị Ngọc Trúc, Bà Chúa Mía (Nguyễn Thị Ngọc Dong), Bà Huyền…) đã bỏ tiền của để sửa chữa đường xá, xây chùa cho dân hoặc thời Cận đại giai đoạn kháng Pháp có các nhà tư sản như gia đình Ông Trịnh Văn Bô, Bà Hồ Thị Minh, Bạch Thái Bưởi, Nguyễn Sơn Hà… họ đã ủng hộ tiền, vàng giúp Chính phủ Việt Nam kiến quốc.
Trong cuộc tái thiết xây dựng Hoàng cung Thăng Long lần này, nếu có những
nhà công đức lớn, tùy theo giá trị đóng góp, họ sẽ được khắc tên trên bia đá, bia đồng hoặc tạc tượng bằng gỗ dát vàng, dát bạc để lưu truyền cho hậu thế tại tòa
Nhà công đức này.
Nội thất: Có treo những bức đại tự bằng chữ Hán và các hoành phi câu đối
gắn với chủ đề công đức, làm điều thiện. Trang trí những bộ khám thờ Thần công đức cùng những hiện vật của các thời đại về những nhà công đức nổi tiếng. Trong khu nhà này, trưng bày rất nhiều hệ thống bia đá, bia đồng để dự trữ cho các đời sau công đức. Trên tường có nhiều bức tranh họa tiết, hoa văn cũng hướng về chủ đề công đức.
2.2. Trước cửa Điện Kính Thiên dựng tượng đài Lý Thái Tổ đứng trên thuyền rồng đọc chiếu dời đô.
Đây là công trình được tạo tác bằng đá hoặc vật liệu bằng đồng (đồng đúc) được mạ chống rỉ (có khả năng tồn tại hàng ngàn năm không bị xâm hại của nắng, mưa). Tác phẩm này mang tính lịch sử và tính nghệ thuật rất cao.
Tượng có chiều cao từ 10 đến 12m (gồm cả đế). Hình tượng nhà Vua mặc áo long bào, đầu đội mũ bình thiên, đứng trên thuyền rồng đọc chiếu dời đô. Thuyền rồng được biểu tượng bằng những họa tiết đứng trên sóng nước lăn tăn và trên đầu nhà Vua là cảnh mây trời lồng lộng. Mặt trước của thuyền rồng khắc bài chiếu dời đô bằng 3 ngôn ngữ Việt – Hán – Anh.
2.3. Vườn Thượng Uyển
Trước cửa Điện Kính Thiên là khu Vườn Thượng Uyển. Khu vườn có S ước
khoảng từ 8500m2 đến 10.000m2 (Vườn Thượng Uyển này chỉ mang tính chất tượng trưng, ước lệ, vì Vườn Thượng Uyển ngày xưa rộng tới 2 - 3 ha, trong đó có xây lầu, các để nhà Vua, Hoàng hậu và các cung tần mỹ nữ tọa lạc, nghỉ ngơi, giải trí. Nay diện tích có hạn ta không thể phục chế nguyên dạng được). Vườn Thượng Uyển được tập trung, tái tạo trồng hàng nghìn loại thực vật, cỏ, cây, hoa lá hiếm quý, vương giả như:
Ngâu Hoàng lan Hoa ly
Sói Dâm bụt Đỗ quyên
Hồng (các loại hoa hồng) Mẫu đơn Hoa huệ
Nguyệt quế Cúc vạn thọ Cúc đại đóa
Dạ hương Sen cạn, Sen bồn Hoa Glayon
Hoa nhài Liễu Hoa Thược dược
Trạng nguyên Hoa sữa Hoa tóc tiên
Hoa mộc Hoa đại Cẩm chướng
Ngọc lan Hoa sứ Các loại cây dáng thế
Hoa Hướng dương Cúc ướp trà ...vv.
Trong Vườn Thượng Uyển còn kết hợp tạo dáng các loài chim muông thú, Long – Ly – Quy – Phượng, Voi, Hổ, Báo, Hươu, Nai được uốn tỉa kết lại từ các loài cây. Khu vườn luôn luôn phải đảm bảo có hương hoa thơm tỏa ngát bốn mùa. Và nhưng cây cao bóng cả có tán lá che bóng mát hoặc một số loài cây biểu
tượng cho người quân tử và tuổi thọ: Thông, Tùng, Bách, Trắc Bách diệp, Vạn tuế, Vạn Niên thanh …vv. Mỗi khu vực có lát đường đi bằng gạch Bát Tràng hoặc Giếng Đáy có vân hoa chanh, hoa sen, hoa cúc. Trong Vườn Thượng Uyển có đắp giả núi non bộ. Tức là làm sống lại một Vườn Thượng Uyển thực sự của Hoàng cung (trong phạm vi diện tích hiện có cho phép.
2.4. Lầu Tao Đàn.
Tiếp theo Vườn Thượng Uyển là Lầu Tao Đàn nằm trên trục Thần đạo (đường chính tâm). Một khu di tích để tưởng nhớ đến vị Hoàng đế lừng danh trong lịch sử: Hoàng đế Lê Thánh Tông, người đã trị vì đất nước bằng bộ Luật Hồng Đức và đưa đất nước Đại Việt đến đỉnh cao thịnh trị nhất của các vương triều phong kiến Việt Nam. Ngoài bộ Luật Hồng Đức nhà Vua còn cho lập ra Bản đồ Hồng Đức và viết các tác phẩm Hồng Đức quốc âm thi tập, Thiên Nam dư hạ tập là những giá trị văn hóa, xã hội lớn lao. Lê Thánh Tông còn cho sửa sang Văn Miếu, khởi xướng lập bia Tiến sỹ, lập Hàn Lâm viện, Quốc sử viện, Nhà Thái Học, Quốc Tử Giám. Đặc biệt, hoàn thiện hơn cả so với các vương triều trước đó là bộ máy tổ chức Nhà nước có từ 4 Bộ lên 6 Bộ. Nhà Vua đã lập ra Hội Tao Đàn Nguyên soái gồm 28 vị văn
nhân nổi tiếng để sáng tác thi ca mà ông là chủ Tao Đàn Nguyên soái.
Lầu hình bát giác xây 2 tầng trên nền S 360m2 (bằng 1 góc đầy3600 trờiđất).
Phần ngoài, được xây bằng gạch Giếng Đáy, họa tiết giả vân gỗ. Mái bát giác lợp ngói Lưu ly (ngói ống Âm – Dương); các đường cạnh (tám cạnh từ đáy lên đỉnh lầu) đắp nổi biểu tượng bằng các con vật Long – Ly – Quy – Phượng bên trong vách tường ốp gỗ, có chạm trổ, vẽ rồng mây hoa lá chim muông thú. Nội thất lầu các, hệ thống dầm, xà, kèo, mè, dui đều được kiến trúc bằng gỗ quý đinh, lim, sến, táu...vv.
Giữa tầng 1 và tầng 2 có cầu thang gỗ lên, xuống riêng biệt.
Tầng 1: Sàn tầng 1 lát gạch cổ, có thể là gạch Bát Tràng, vân khắc hoa chanh, hoa sen. Cửa ra vào kiểu cửa bức bàn, mang đậm phong cách nghệ thuật kiến trúc thời Lê sơ. Ở tầng này, khắc in bộ Luật Hồng Đức bằng tiếng Việt – Anh, mỗi chương hồi được phân chia thành khung nằm trên diện tích của 8 bức tường đã ốp gỗ. Mỗi khung có họa tiết hoa văn 4 chiều, văn tự được đặt trong khung đó giống như 1 bức tranh. Giữa đại sảnh là tượng Lê Thánh Tông cao khoảng từ 2m đến 2.5m (gồm cả đế) trong tư thế ngự triều. Dưới chân đế tượng có khắc những dòng chữ năm sinh, năm mất và tóm tắt cuộc đời sự nghiệp của nhà Vua.
Tầng 2: Sàn gỗ.
Tầng này cũng có hệ thống tượng đài. Hệ thống tượng đài gồm 28 vị văn nhân, có tượng Hoàng đế Lê Thánh Tông đang ngồi luận bàn sáng tác thơ ca. Tượng đài được chạm khắc bằng gỗ, sơn son thiếp vàng và trang phục theo đúng
phẩm chật, chức tước quan của mỗi người. Dàn tượng có lắp ráp điện tử giống
như một sa bàn. Và họ, tên mỗi danh nhân Tao Đàn.
Trên tường xung quanh 8 bức là những bài thơ (của Hội Tao Đàn) sáng tác
được khắc in bằng 2 sinh ngữ Anh – Việt. Các bài thơ này đều đặt trong khung
giống như những bức tranh và gắn lên tường.
Điểm xuyến giữa các khung thơ được trình bày là những tác phẩm hội họa sáng tác vào triều đại nhà Lê. Trên vòm trần (mái trong) của Lầu Tao Đàn là những tác phẩm hội họa vẽ cảnh thần tiên Tú Uyên Giáng Kiều, Vua gặp tiên và về thân thế, cuộc đời của Lê Thánh Tông.
Ghi chú : Trên Thế giới một bộ luật được nhiều nước ca tụng và khi làm luật dân sự họ đều lấy bộ luật này để tham khảo đó là bộ Luật dân sự Hoàng đế Napoléon. Luật Napoléon được ra đời năm 1804. Ở Việt Nam bộ Luật Hồng Đức ra đời vào Thế kỷ thứ XV, so với bộ Luật Napoléon, Bộ Luật Hồng Đức đã có sớm hơn 300 năm. Bộ Luật Hồng Đức có nhiều điều khoản tiến bộ và rất giá trị. Song Thế giới chưa hề biết đến. Bởi vậy, việc giới thiệu bộ Luật Hồng Đức với bạn bè Thế giới và khách du lịch là điều rất cần thiết. Từ bộ luật này, nó phán ảnh một Quốc gia đã có nền văn hiến lâu đời và quản lý đất nước bằng luật pháp.
2.5. Tượng Thần Long Đỗ
Kinh Thành Thăng Long ra đời gắn liền với lịch sử Thần Long Đỗ. Một vị Thần
đã ăn sâu vào đời sống tâm linh của người dân Thủ đô. Tương truyền Rốn Thần Long Đỗ nằm trên dải đất từ Cửa Bắc đến Cột Cờ bây giờ. Tuy Đền Bạch Mã là nơi thờ Thần Long Đỗ. Song giá trị tâm linh và sức mạnh tỏa sáng của Thần trong suốt chiều dài lịch sử chưa xứng với tầm vóc của Thần trong các thời đại kế tiếp. Lý do, Kinh Thành Thăng Long thoạt kỳ thủy của nó tên là Thành Long Đỗ. Sau đó, nhà Tùy (581 – 618), nhà Đường (618 – 907) sang xâm lược nước ta chúng mới đổi tên là Thành Tống Bình. Vì vậy, trong khu vực Hoàng cung nằm trên đường Thần đạo theo trục Bắc – Nam (từ Đại Điện Kính Thiên tới Cột Cờ) phải có một nơi thờ Thần Long Đỗ là biểu tưởng thiêng liêng mang tính chất nhân văn rất cao đẹp, kỳ vĩ của nền văn hóa dân tộc Việt Nam “uống nước nhớ nguồn”.
Vị trí đặt tượng: Tại số nhà 14 Đường Nguyễn Tri Phương dóng thẳng vào trung tâm của khu đất này.
Tượng Thần Long Đỗ dựng trên diện tích 120m2. Đế dựng tượng thần là lư hương bằng đồng nặng 5 tấn, có chạm trổ hoa văn đầu rồng và các thú Long – Ly – Quy – Phượng. Lư hương đồng đặt trên lưng 8 con thần quy (Rùa thần) được kê làm đế; 8 con thần quy xếp theo hình tròn đầu chầu quay về 4 hướng Đông – Tây – Nam – Bắc chia đều 1 góc đầy 3600. Thần quy được tạc từ đá Granit. Trên thành của lư hương đồng dựng một cột đồng (đồng đúc mạ) cao 8m, chân cột đồng phía Bắc và Nam tạo hình bán nguyệt để hành lễ khi thắp hương. Cột đồng hình trụ đường kính từ 0.8m đến 1m làm điểm tựa để gắn kết một thân rồng vàng uốn quanh vươn lên trời cao. Thân rồng vàng đường kính khoảng 1m có cánh vảy
vàng óng ả. Trên đỉnh cao cột đồng là đầu rồng vươn cao 2m, mắt rồng long lanh rực rỡ bằng hệ thống đèn điện tử, hàm rồng, tua rồng, mũi rồng nhất là đoạn cánh rồng đều ở tư thế bay lên trời xanh rất hoành tráng. Dưới lư hương vào những ngày lễ tết, hội hè, khách thập phương đến lễ bái dâng hương, làn khói xanh sẽ được tỏa ra từ miệng rồng, mũi rồng ở đỉnh cột đồng. Từ làn khói xanh bay lên, tạo ra một không khí trang nghiêm, trầm mặc, thiêng liêng, tịch mịch. Ngoài ra, trong lõi cột đồng và mình rồng có gắn hệ thống ống dẫn nước, và các chíp điện tử lẫn trong các vẩy rồng vàng, khi đóng mạch điện, rồng vàng tự phun mưa cùng với ánh đèn rực rỡ bật sáng khắp mình rồng. Tạo cho người dâng hương thấy một cảnh tượng lung linh huyền ảo, kỳ diệu về rồng vàng bay lên trên đất Thăng Long.
Bố cục liên hoàn với cảnh Rồng vàng bay lên, xung quanh Thần Long Đỗ, phối cảnh là 8 cánh buồm (trong Kinh Dịch được gọi là Bát quái) được đặt theo 4 hướng Đông – Tây – Nam – Bắc, mỗi cánh ước chừng diện tích từ 60m2 – 80m2. Vật liệu bằng cốt thép bê tông - đổ dày từ 12cm đến 15cm, hai mặt ốp đá hoa cương vân trắng. Tám bức tường cánh buồm mỗi cánh dài 9m được bố cục bao quanh Thần Long Đỗ. Trên mỗi cánh buồm này khắc tên (bằng chữ đồng mạ vàng) về các anh hùng, liệt sỹ của Thủ đô qua hai cuộc kháng chiến chống ngoại xâm. Công phu của danh sách này: phải biết được năm sinh, năm mất của từng liệt sỹ để khắc tôn vinh thờ cúng, sao cho đúng hướng theo thuyết của phong thủy và Ngũ hành – Bát quái. Nếu thực hiện được điều này, sẽ góp phần to lớn động viên, khích lệ hàng vạn các gia đình có người hy sinh và tắm mát cho vong linh người đã khuất làm cho Quốc thái, dân an. Tại washington của Mỹ, họ đã xây dựng bức tường khắc tên tương tự như vậy. Ở Nhật Bản, họ cũng xây dựng nhiều đền thờ vong linh những chiến sỹ hy sinh nơi sa trường và các khu hầm kiến trúc vật lý với hệ thống âm thanh hiện đại, đặc biệt để gọi hồn, vong linh và giải tỏa năng lượng vong linh.
2.6. Xây dựng một Bảo Tháp tại Hoàng cung Thăng Long
Xưa tại Hoàng cung Thăng Long đã từng có tòa Tháp Báo Thiên trên nền đất cũ là nơi Tòa báo nhân dân bây giờ. Tháp sau bị sét đánh đổ sập nhiều tầng. Thời gian trôi qua các triều đại không khôi phục được và cũng tàn lụi như tháp đổ. Nay xây dựng tòa Bảo Tháp tại Hoàng cung Thăng Long có một phần hình bóng của Tháp Báo Thiên, một ý nghĩa tâm linh của Thiên Đàn, nhưng không khôi phục nguyên trạng Tháp Báo Thiên, Thiên Đàn trong tòa Bảo Tháp này. Tòa Bảo Tháp mang bóng dáng lịch sử của 12 Thế kỷ, 10 Thế kỷ đã trôi qua và hai Thế kỷ XXI – XXII biểu tượng cho hiện tại, tương lai.
Tòa Bảo Tháp là sự nối tiếp lịch sử của quá khứ, hiện tại và những ý tưởng đang hướng tới trong tương lai.
Vì thế Bảo Thápà mang một tầm vóc lịch sử của thời đại vừa tiếp nối truyền thống Tổ tiên, nhưng lại ẩn chứa tư tưởng của hôm nay và mai sau. Biểu tượng
của dân tộc Việt Nam đang vươn lên ngang tầm thời đại.
Diện tích Bảo Tháp xây dựng khoảng 360m2. Tháp cao 60m chia thành 12 tầng. 10 tầng dưới biểu tượng 10 Thế kỷ đã trôi qua, tầng 11 và 12 là biểu tưởng của hai Thế kỷ XXI, XXII. Tháp xây hình lục lăng (6 cạnh) mỗi cạnh 9m. Trước khi bước lên nền đế Tháp được xây 9 cấp chia thành 6 cạnh, mỗi cấp rộng 0.9m, trên mặt được họa tiết hoa cúc, hoa chanh. Vật liệu bằng đá Hoa cương. Nền đế Tháp bên dưới được đổ sàn bằng cột móng bê tông cốt thép giằng chịu lực chống lún móng của 12 tầng. Tòa Bảo Tháp dùng con số 9 là phép tính cửu quy, đồng thời cũng là con số lớn nhất của liệt số tự nhiên trong toán học và biểu tượng chín hành tinh của hệ Mặt trời.
Vật liệu xây dựng bằng gạch Giếng Đáy, trong lòng Tháp là hệ thống dầm, xà, sàn, cột bằng bê tông cốt thép, ngoài ốp gỗ và giả gỗ. Hình Tháp lên trên thu nhỏ dần. Có thể kết cấu mỗi chiều đỉnh Tháp chỉ còn 4.5 x 4.5. Có hệ thống cầu thang gỗ đi bộ và hệ thống cầu thang máy lên đỉnh Tháp. Các cửa của Tháp nhìn ra các hướng Đông – Tây – Nam – Bắc. Từ tầng 10 đến tầng 12 trang thiết bị ống nhòm để khách du lịch có thể quan sát toàn bộ Hoàng cung Thăng Long và ngắm bầu trời sao, quan sát thiên văn ở tầng 12. Mỗi tầng đều có cửa vòm cuốn đắp phào nổi chạm trổ hoa văn và các loài chim muông. Tại tầng 12 có một phòng khánh tiết đặc biệt trang thiết bị thu hình dùng để làm nơi hàng năm Chủ tịch nước đọc lời chúc Tết đầu Xuân cho đồng bào cả nước. Và cũng là nơi để Nguyên thủ Quốc gia đọc lời hiệu triệu và tuyên bố những vấn đề trọng đại của Quốc gia. Hằng năm, vào ngày lễ Phật Đản, lễ Vu Lan quốc sư đạo Phật tới đọc lời cầu nguyện cho Quốc thái dân an và giáo hóa từ thiện trong con người.
Về mỹ thuật trang trí trần thiết của Bảo Tháp:
Đỉnh Tháp là một bông sen vàng đang nở (các cánh hoa đều được gắn đèn
thắp sáng nhấp nháy). Trên đỡ một quả địa cầu màu xanh da trời, biểu tượng cho nền hòa bình, Quốc thái dân an. Trên quả địa cầu có hình nước Việt Nam và các Quốc gia trên Thế giới. Quả địa cầu đặt giữa hoa sen với hệ thống tự động phát ra những tia sáng màu rực rỡ và quay trên trục liên tục (24h/24h). Dưới quả địa cầu là một quả chuông nặng 3 tấn (trong đó 1/3 là vàng - để đảm bảo chuông có tần số âm thanh ngân vang xa, trong và ấm vang khắp Kinh thành). Chuông được đúc dập theo hình dáng kích thước của Chuông Quy Điền (một trong tứ khí quý của Đại Việt ngày xưa). Hàng ngày chuông đổ hồi theo những giờ quy định
của Nhà nước và đổ liên hồi (nhiều hồi) trong những ngày lễ tết: Quốc khánh, lễ Phật Đản, Tết Nguyên Đán, Rằm Tháng Giêng (Tết Nguyên Tiêu), Giỗ Tổ Hùng Vương, Chào mừng ngày thành lập Đảng mùng 3 Tháng 2…vv. Sáu mặt Tháp, từ tầng 12 gắn 6 đồng hồ điện tử lớn theo bốn hướng Đông – Tây – Nam – Bắc.
Tầng 1 đến tầng 10: Khởi đầu của nhà Lý và các tầng nối theo là của các triều đại Trần – Hồ – Lê – Mạc, Lê – Trịnh – Tây Sơn, Nguyễn…vv. Mỗi tầng trang trí trần thiết theo môtip hoa văn của triều đại ấy. Đồng thời, trình bày các hiện vật hình ảnh thành tựu khoa học quan sát thiên văn, khí tượng của từng triều đại. Có thể mang các bản dập khắc văn tự nổi tiếng của các ngôi chùa có niên đại từ thời Lý, thời Trần về trình bày ở đây và kèm bản dịch. Mỗi tầng có một tủ kính lục giác, khảm trai, khảm bạc các cạnh, được bày những cuốn sách nghiên cứu của triều đại ấy. Trên tường là những bức bích họa mô tả các triều đại nghiên cứu thiên văn, Vũ Trụ cùng hình ảnh các nhà đại sư tu hành Phật pháp đạt tới độ viên mãn. Riêng tầng thứ 10, là sự giao thoa của các nền văn hóa (văn hóa phong kiến Đại Việt, văn hóa phương Tây du nhập và nền văn hóa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam hình thành). Ở tầng này, nên trình bày những tác phẩm giới thiệu về các luồng tư tưởng Đông phương, Tây phương, Phật học: Lão Tử, Khổng Tử, Tuân Tử, Tôn Tử, Hàn Phi Tử các Nho gia phương Đông và các triết gia tư tưởng phương Tây như Platon, Aristot, Kan, Phobach, Hegen, Kar Marx, Ănghen, Lenin, … Hồ Chí Minh và những tác phẩm nổi tiếng của các nhà thiên văn học Thế giới như Galile, Copecnic, Tikobrahe, Johannes Kepler …. Một số tượng gỗ về một số nhà toán học lịch pháp Việt Nam như Lương Thế Vinh, Vũ Hữu, Nguyễn Hữu Thận, Gs. Lê Văn Thiêm, Gs. Hoàng Xuân Hãn, Gs. Ngô Bảo Châu…vv. Ở tầng thứ 11 và 12 là trang thiết bị biểu tượng nghiên cứu thiên văn Vũ Trụ trong tương lai.
Phía ngoài các cạnh của tòa Tháp được đắp nổi với những họa tiết hoa văn về biểu tượng con rồng (rồng thời Lý, Trần, Hồ, Lê, Mạc, Trịnh, Tây Sơn, Nguyễn). Sáu mặt của Bảo Tháp là những tượng nổi toàn thân hoặc bán thân về các vị thiền sư, cao tăng đắc đạo Quốc sư của mỗi triều đại có công với dân tộc. Riêng tầng thứ 10 là tượng đắp nổi về Chủ tịch Hồ Chí Minh (tượng bán thân) trong các họa tiết có lắp các chíp điện tử gắn với hệ thống điều hành tự động của tòa Tháp. Vào những dịp lễ hội, khánh tiết, Đại lễ Quốc gia khi đóng mạch điện, tòa Tháp có thể hiện lên lung linh rực rỡ trên nền trời xanh vào lúc hoàng hôn tắt bóng.
Tùy theo S của mỗi tầng Tháp có thể bố trí mang về đây những bộ sách quý của các thời đại (thuộc loại tàng thư bảo quốc) được trưng bày trong các tủ kính.
Tòa Bảo Tháp là một đặc thù kiến trúc của Việt Nam đại diện cho nền kiến trúc phương Đông. Nước Pháp tự hào có Tháp Eiffel (Aphen), một kỳ quan nổi tiếng của thời đại sắt thép ở Châu Âu thì Việt Nam tự hào có Bảo Tháp. Do đó, tòa Bảo Tháp này sẽ được xây dựng theo một môtip kiến trúc đặc biệt, đặc trưng
của nền Kiến trúc Á Đông (sẽ có sơ đồ và bản vẽ kiến trúc cụ thể nếu một khi đề án được Nhà nước duyệt).
Vị trí Tòa Bảo Tháp được xây dựng trên khu đất tại số nhà 2, 4, 6 Phố Lê Hồng Phong và phía bên kia là số nhà 41, 43, 45, 45, 47, 49 Đường Điện Biên
Phủ (tức là nằm giữa khu đất của hai trục đường Lê Hồng Phong và Điện Biên Phủ).
2.7. Vườn Chim Cảnh Hoàng cung (Thế giới các loài chim)
Vườn Chim Cảnh Hoàng cung được xây dựng trên diện tích Vườn Bách Thảo và Bộ Nông nghiệp (số 2 Ngọc Hà). Trong Khu vực Vườn Chim Hoàng cung được trồng các loại cây to, có tán lá như Cọ, Sấu, Hoa ban, Chò chỉ, Bằng lăng, Sưa, Đề, Đa, Sao đen, Sấu, Hoa sữa…vv che bóng mát cho vườn chim. Dưới là thảm thực vật và một vườn chim cảnh được tập trung về đây nhiều loại chim muông quý hiếm (khoảng 200, 300 loài).
Chim được phân thành các ô có lưới thép che chắn bảo vệ. Đó là những loại chim muông quý như:
Họa my Liếu tiếu Vạc Công
Sáo, sáo sậu Vẹt Bói cá Trĩ
Chim ri Chào mào Bồ nông Chim cu gáy
Chim bụt Chẻo bẻo Cò Chim sâu
Chim chích Chích chòe Hạc Chim gõ kiến
Bồ câu Chim Hoàng yến Gà gô Chim vịt
Chim ngói Phát thanh Gà rừng …vv…vv
Và một số loại động vật nhỏ không gây ô nhiễm môi trường như:
Sóc biết bay Kỳ nhông
Tắc kè Nhím
Thằn lằn Khỉ, Chồn…vv.
Đường đi trong vườn chim được chia lô, nền lát đá, có chạm khắc hoa văn, hai bên dọc theo đường đi là những hàng cây:
Tóc tiên, hàng Liễu leo rủ, tạo cho khách du lịch như được vào chốn thanh
tịnh chỉ có tiếng chim ca, vượn hót. Gây cảm giác thanh bình và thư giãn.
2.8. Khu vực Bảo tàng ngầm
Bảo tàng ngầm nơi phát lộ qua những đợt khai quật của Hoàng Thành Thăng Long vào các năm 2002 đến 2006. Khu vực này, nằm dưới Tòa nhà Quốc hội đang xây dựng (có diện tích khoảng từ 1500m2 đến 2000m2). Học tập kinh nghiệm của các nước Nhật Bản có Bảo tàng ngầm Nara, Italia, Roma họ đã làm bảo tàng ngầm. Ở Hoàng Cung Thăng Long ta giữ nguyên hiện trạng những hố khai quật nằm dưới lòng đất dùng hệ thống dầm, xà bằng đuyra chống đỡ sàn và đèn chiếu sáng từ dưới hắt lên ; bên trên là những tấm kính 15cm x 20cm hoặc 20cm x 20cm, dày từ 10 đến 15 phân để lát nền. Khách tham quan có thể đi trên
mặt kính và quan sát các di sản, di vật nằm dưới lòng đất của các vương triều đã tồn tại từ nhiều Thế kỷ. Hạng mục công trình này đòi hỏi người lắp ráp phải có trình độ kỹ thuật cao, phối hợp ăn ý với nhà khai quật để trình bày phát lộ ra những giá trị vô giá của các tầng khảo cổ còn nằm trong lòng đất.
2.9. Nhà Bảo tàng hình ảnh và hiện vật
Vị trí là toàn bộ khu nhà của Bộ ngoại giao và một phần diện tích trước cửa Bộ ngoại giao, Phố Tôn Thất Đàm và Khu vườn liền kề của số nhà 36A Đường Điện Biên Phủ. Diện tích ước khoảng từ 3500m2 đến 4000m2.
Bảo tàng hình ảnh và hiện vật là Bảo tàng tổng hợp những thành tựu xây dựng kinh tế – văn hóa – khoa học và kỹ thuật trong 65 năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng. Nó gồm các lĩnh vực :
Kinh tế : Thành tựu kinh tế công nghiệp, nông nghiệp, nông lâm nghiệp, hải sản, kinh tế tiểu thủ công nghiệp (thủ công mỹ nghệ...).
Văn hóa : Thành tựu nghệ thuật, văn học, vũ đạo, sân khấu, kiến trúc, điện ảnh, nhiếp ảnh, ca múa nhạc.
Thành tựu về Y tế, Giáo dục.
Khoa học - công nghệ : Các thành tựu khoa học - công nghệ (toán học, vật lý, hóa học, sinh học, sinh vật học phân tử, y học, giao thông vận tải, điện năng, môi trường, vật liệu xây dựng, Báo chí, Xuất bản, Phát thanh truyền hình...vv).
Khoa học xã hội : Những thành tựu của khoa học xã hội Việt Nam.
Khoa học quân sự : Một số thành tựu tiêu biểu 65 năm bảo vệ đất nước và những phát minh khoa học. Bảo tàng hình ảnh và hiện vật không thể di rời và tách ly khỏi Hoàng cung Thăng Long. Vì sự hiện diện, trực quan của nó sẽ tôn thêm giá trị lịch sử của di sản
Bảo tàng được chia thành hai khu vực :
- Khu vực 1 : Trình bày các hiện vật, hình ảnh trong các tầng của khu nhà Bộ Ngoại giao cũ sau khi đã được trùng tu.
- Khu vực 2: Trình bày các hiện vật, hình ảnh ngoài trời, trong đó có hệ
thống và hiện vật tượng đài, bia đá…
Khu vực này kết hợp một số sa bàn như sau:
a. Dựng lại sa bàn chiến thắng Cầu Giấy của nghĩa quân cờ đen Hoàng Kế Viêm và Lưu Vĩnh Phúc tiêu diệt hai sỹ quan Pháp francis Garnier và Henri Lauren Rivière .
b. Sa bàn bảo vệ Thành Hà Nội của hai Tổng đốc Nguyễn Tri Phương và Hoàng Diệu trong những ngày đầu chống lại cuộc xâm lược của thực dân Pháp khi chúng đánh chiếm Hà Thành.
c. Sa bà dựng lại hình ảnh Bác Hồ đọc bản Tuyên ngôn Độc Lập trong ngày Quốc khánh 2 – 9 – 1945 tại Quảng trường Ba Đình.
d. Sa bàn dựng lại cảnh Trung đoàn Thủ đô hoạt động trong lòng địch, với những trận chiến nảy lửa diễn ra ở Phố Hàng Bún, Bốt Hàng Đậu, Chợ Đồng Xuân hay tiến đánh Bắc Bộ Phủ… và hình ảnh chiến sỹ cảm tử quân ôm bom ba
càng lao vào xe địch.
e. Sa bàn dựng lại hình ảnh Trung ương Đảng, Chính phủ và đoàn quân tiến
vào giải phóng Thủ đô 1954.
g. Sa bàn dựng lại hình ảnh quân, dân Thủ đô bắn rơi pháo đài bay B52.
Khu vực sa bàn được xây dựng trên khu đất phía trước Bộ ngoại giao bây giờ (khoảng vị trí khu vực số nhà 36A, Đường Điện Biên Phủ).
Nhà xây một tầng. Mỗi khu vực sa bàn có sức chứa từ 100 đến 200 khán giả.
Xen kẽ mỗi khu vực sa bàn là những hệ thống tượng đài, hiện vật, hình ảnh của cuộc kháng chiến chống Pháp, Mỹ (trên không). Hệ thống tượng đài, hình ảnh này đã có danh mục thiết kế chi tiết nếu một khi đề án được thực hiện.
Ngoài khu vực Bảo tàng là hệ thống cây xanh, vườn hoa và các quầy bar phục vụ khách du lịch thuộc các số nhà từ 32 đến 36 Đường Điện Biên Phủ.
2.10. Vườn Tượng, Bia các Nguyên thủ Quốc gia
Để tưởng nhớ ngàn đời mai sau trong lịch sử dân tộc về các nhà lãnh đạo đã đưa Tổ quốc Việt Nam tiến ngang tầm thời đại và tự hào sánh vai với các cường quốc như ngày nay, với thành tựu ấy, một dân tộc văn minh nhất thiết phải có vườn tượng, bia để ghi nhớ công lao những Nguyên thủ Quốc gia. Đó là biểu hiện một dân tộc có văn hóa.
Vị trí khu vườn tượng, bia nằm ở khu vực phía Tây – Tây Bắc là Đường Hùng Vương, phía Tây – Tây Nam là Phố Lê Hồng Phong ; phía Đông - Đông Nam là Phố Huyện Thanh Quan, phía Bắc - Đông Bắc là Vườn hoa Huyện Thanh Quan, Phố Chùa Một Cột. Khu vực này là tượng đài của các đồng chí lãnh đạo cao cấp Đảng – Nhà nước và các chính khách lỗi lạc gồm:
Tổng bí thư qua các thời kỳ, nhiệm kỳ Đại hội
Thủ tướng Chính phủ qua các thời kỳ, nhiệm kỳ
Chủ tịch Quốc hội qua các thời kỳ, nhiệm kỳ
Chủ tịch nước qua các thời kỳ, nhiệm kỳ
Chính khách lỗi lạc, xuất sắc từ khi có Đảng lãnh đạo
Mỗi Nguyên thủ, chính khách đều có một tượng đài đứng hoặc bán thân được điêu khắc bằng đá có sức bền vật liệu chịu sự xâm thực, mưa, nắng hàng ngàn năm. Trước mỗi tượng đài có một tấm bia ghi năm sinh và mất (nếu đã mất). Trên bia ghi tóm tắt nơi sinh và đôi dòng đánh giá về công lao đối với lịch sử dân tộc. Trong Vườn Tượng, bia các Nguyên thủ Quốc gia là thảm thực vật, trồng hoa thơm và các giàn hoa địa lan. Hàng tượng, bia được bố trí theo ô có lối đi lát gạch ví dụ: Khu vực Tượng, bia Tổng bí thư riêng, khu vực Tượng, bia Thủ tướng Chính phủ riêng và các tượng, bia sau cũng bố trí như vậy.
2.11. Khu vực Vườn Tượng, Bia Danh nhân - Vĩ nhân
Ở những nước văn minh như Pháp, họ có dành riêng xây cất Điện Phanthéon, nơi yên nghỉ vĩnh hằng của các vĩ nhân và các nhà văn hóa lớn. Học tập Pháp,
các nước như Vương quốc Anh, Italia, Tây Ban Nha tại Thủ đô của những nước này đều có nghĩa địa Danh nhân. Vì vậy trong Hoàng cung Thăng Long 1000 năm văn hiến và là một đất nước có truyền thống mấy ngàn năm lịch sử không thể không có Khu Vườn Tượng, Bia Danh nhân - Vĩ nhân.
Khu vực này nằm trong diện tích, phía Đông - Đông Nam là Phố Chu Văn An (từ số 2 đến 6), phía Nam – Tây Nam là Phố Lê Hồng Phong (từ số nhà 8 đến 12), phía Tây – Tây Bắc là Phố Huyện Thanh Quan, phía Bắc - Đông Bắc là Phố Chùa Một Cột (từ số 1 đến số 5). Đây là khu vực tượng, bia của các vĩ nhân, danh nhân nổi tiếng của Hà Nội ví dụ như Chu Văn An, Lý Đạo Thành, Tố Hiến Thành, Mạc Đĩnh Chi, Trạng nguyên Nguyễn Hiền, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Lê Văn Hưu, Thân Nhân Trung, Lê Quý Đôn, Tuệ Tĩnh, Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác, Huyện Thanh Quan, Đoàn Thị Điểm, Hồ Xuân Hương, Tổng đốc Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu…vv. Thời hiện đại có những danh nhân nổi tiếng như Bác sỹ Trần Duy Hưng, GS. Trần Đại Nghĩa, Nhà nông học Lương Định Của, GS Viện sĩ Vũ Tuyên Hoàng, GS Lê Văn Thiêm, GS. Ngô Bảo Châu…vv. Cách bố cục bài trí vườn tượng, bia, vườn hoa cây cảnh giống như khu vườn tượng, bia các Nguyên thủ Quốc gia. Nhưng ở đây không có vườn địa lan mà có các loại hoa quý như Đỗ quyên, Hoa trạng nguyên, Mẫu đơn, Trắc bách hợp, Tùng, Bách, Thông La Hán và các loại hoa như Ngâu, Nguyệt quế, Mộc và thảm cỏ.
2.12. Khu Vườn Tượng, Bia Tướng lĩnh sa trường
Nằm trong khuôn viên : phía Đông - Đông Nam Phố Hoàng Diệu (từ số nhà 26 đến liền kề số 30 Đường Điện Biên Phủ) chỗ tiếp giáp từ tượng đài tưởng niệm các anh hùng liệt sỹ tới góc đường giao nhau Điện Biên Phủ. Phía Nam – Tây Nam là Đường Điện Biên Phủ, phía Tây – Tây Bắc giáp với Bảo tàng hình ảnh, hiện vật (vừa trình bày ở trên), phía Bắc - Đông Bắc giáp với Vườn hồng và tượng đài tưởng niệm các anh hùng liệt sỹ.
Khu Vườn tượng, bia Tướng lĩnh sa trường là nơi dành riêng cho các tướng lĩnh chiến trận của Việt Nam trải qua các thời kỳ lịch sử Cổ đại, Cận đại, Trung đại và Hiện đại. Vườn tượng, bia được xây dựng là nơi đặt tượng, bia để tưởng nhớ tới công lao các vị tướng và các anh hùng nổi tiếng đã hy sinh vì dân tộc. Những con người đó, được lịch sử thừa nhận, được nhân dân yêu quý, tôn thờ (như dân gian thường nói : “Sinh vi tướng, tử vi thần” . Đó là những con người được Đảng và Nhà nước công nhận truy phong. Ví dụ Cao Lỗ, Lý Ông Trọng, Bà Trưng, Bà Triệu, Triệu Quang Phục, Lý Nam Đế, Mai Hắc Đế, Phùng Hưng, Khúc Thừa Dụ, Ngô Quyền, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Trần Quang Khải, Trần Khát Chân, Trần Bình Trọng, Trần Quốc Toản, Yết Kiêu, Dã Tượng, Nguyễn Xí, Quang Trung – Nguyễn Huệ , Đại tướng Võ Nguyên Giáp...vv. Khu vực Tượng, bia tướng lĩnh sa trường được bố trí xây dựng giống như hai khu vực tượng, bia
trên. Dưới chân mỗi tượng, bia đều có thảm cỏ thực vật, trồng xen kẽ các loại cây ăn quả như Dừa, Măng cụt, Vú sữa, Mít, Táo, Nhãn, Vải, Bưởi và các loại cây ăn quả bốn mùa khác nữa. Xen kẽ là khoảng vườn phong lan để tô điểm cho khu vực vườn tượng, bia này lúc nào cũng rực rỡ để lại hoa thơm, trái ngọt cho đời sau.
2.13. Khu nhà nghệ thuật
Đây là khu nhà trưng bày các tác phẩm nghệ thuật, hội họa, kiến trúc, điêu khắc, tranh, nhiếp ảnh và những bộ sách lớn hàng năm được trao giải thưởng Quốc gia gọi chung là khu nhà nghệ thuật. Vị trí ngôi nhà được xác định nằm ở góc phía Tây – Tây Bắc Đường Hoàng Diệu (số 1 Hoàng Diệu) và Phan Đình Phùng kề giáp với Điện Kính Thiên. Diện tích ngôi nhà khoảng 1500m2 – 2000m2 được xây 4 tầng không kể tầng ngầm để chứa trang thiết bị, xe cộ.
Tầng 1+2 :
Dành cho các tác phẩm về sách của cả nước được xuất bản hàng năm và
tuyển chọn qua các kỳ thi.
Tầng 3 :
Dành cho các tác phẩm nhiếp ảnh trong cả nước được tuyển chọn trong các kỳ thi (kỳ thi của hội hoặc kỳ thi của Nhà nước tổ chức) và các sản phẩm tiểu thủ công mỹ nghệ tinh xảo như : Mây, Tre đan, Khảm xà cừ, Thêu ren, Thổ cẩm trên các vùng đất nước.
Tầng 4 :
Dành cho các tác phẩm mỹ thuật, hôi họa, điêu khắc (tranh thuốc nước, tranh sơn mài, tranh sơn dầu), đồ gốm…vv. Tất cả các tác phẩm đều được sát hạch qua các kỳ thi của hội, ngành hoặc do Nhà nước tổ chức.
Việc trình bày các tác phẩm ở 4 tầng nhà đều được phép kinh doanh bán cho du khách khi cần mua và tỷ lệ thuế hoa hồng được áp dụng theo quy chế của Nhà nước, để từ đó nhằm kích thích sáng tạo và thỏa mãn nhu cầu của người tiêu dùng, Nhà nước và cá nhân đều có lợi.
2.14. Nhà múa rối nước
Nằm trên Phố Phan Đình Phùng, vị trí vào các số nhà 67, 69 chỗ. Sức chứa của công trình này khoảng từ 200 đến 300 khán giả.
2.15. Một rạp sân khấu Chèo, Tuồng, Cải lương
Rạp này nằm trên Đường Phan Đình Phùng, tại các số nhà 61, 63, 65, diện tích khoảng từ 2000m2 đến 2500m2 , có sức chứa từ 300 đến 500 người và có hệ hầm ngầm, chứa được từ 800 – 1000 xe ô tô cùng hàng nghìn xe gắn máy.
2.16. Một rạp chiếu phim thuộc các đề tài lịch sử dành cho người lớn.
Rạp nằm trên Đường Phan Đình Phùng tại các số nhà 57, 59.
Diện tích khoảng chừng 2000m2 đến 2500m2
Sức chứa từ 500 đến 550 người.
2.17. Một rạp chiếu phim dành cho thiếu niên và nhi đồng.
Diện tích từ 1500m2 đến 2000m2
Sức chưa từ 300 đến 400 chỗ ngồi.
Vị trí đặt tại : Số nhà 51, 53 Phố Phan Đình Phùng. Hai rạp trên đều có hệ thống tầng hầm để chứa xe cho khán giả và cán bộ, viên chức quản lý rạp.
2.18. Một sân khấu ngoài trời
Diện tích từ 2500m2 đến 3000m2
Sức chứa khoảng 1500 đến 2000 người
Vị trí đặt tại khu vực liền kề với Quảng trường Ba Đình. Phía Tây – Tây Bắc giáp Đường Hùng Vương ; Phía Tây – Tây Nam là Phố Chùa Một Cột, Phía Bắc – Tây Bắc giáp thảm cỏ Quảng trường Ba Đình ; Phía Đông - Đông Nam tiếp giáp với vườn hoa đầu Phố Huyện Thanh Quan.
Trong đề án kiến nghị xây dựng một số công trình phục vụ Văn hóa – Nghệ thuật chắc chắn sẽ có ý kiến phản biện rằng: “Thành phố xây dựng loại rạp chiếu phim, sân khấu biểu diễn các loại hình nghệ thuật đã có rồi, nay xây dựng thêm như thế trở nên thừa, lãng phí”. Xin trả lời rằng: khách du lịch đi tour, họ rất ít khi và thật hiếm hoi để có thời gian tìm tới các rạp trong Thành phố. Quỹ thời gian của người đi du lịch rất ít ỏi, họ chỉ xem những cái gì diễn ra ở chính nơi có di tích lịch sử, di sản văn hóa. Do vậy, những công trình văn hóa - nghệ thuật này chủ yếu xây dựng để phục vụ khách du lịch và quảng bá nền văn hóa dân tộc. Và đằng sau nó là ý nghĩa hoạt động kinh tế trong văn hóa.
2.19. Tòa Thủy Ngư Hoàng cung
Để hỗ trợ và là điểm nhấn cho Hoàng cung Thăng Long, ta cần xây dựng một tòa Thủy Ngư Hoàng cung.
Vị trí được đặt tại Khu vực phía Bắc – Tây Bắc của Khu Công viên nước Hồ Tây. Nằm ở dốc Đường Âu Cơ rẽ xuống Hồ Tây. Nay là Khu vực đỗ xe ca, xe tải và Khu đầm Hồ sen (đang bị lấp dần). Diện tích khoảng từ 9.500m2 tới 10.000m2.
Tòa Thủy Ngư Hoàng cung sẽ được xây dựng 2 tầng, một tầng nổi và một tầng ngầm. Kiểu dáng kiến trúc mang đậm tính chất Hoàng cung và phong cách Á Đông.
Tầng nổi:
Được ngăn cách chia lô bằng các bể cá có những tấm kính dày 5 đến 10 phân chịu áp lực lớn, có sức bền vật liệu cao. Mỗi bể cá tùy theo chủng loại có dung tích từ 10m3 – 30m3 đến 100m3 và hệ thống cấp nước, tiêu thoát tự động. Khu vực này tập trung về đây tất cả các loài cá vàng nổi tiếng của vùng Châu Á, nhiệt đới, Á nhiệt đới mà nhiều nước Châu Âu không có được. Đặc biệt, ở tầng nổi nuôi dưỡng những loại cá nước ngọt như: cá Mè, cá Trắm, cá Trôi, cá Chày, cá Chép, cá Vền, cá Diếc, cá Rô, cá Rô phi, cá Trê, cá Quả, cá Bò, cá Cabasa, cá Nheo, Tôm, Cua, Tép đồng, Ếch, Lươn, Chạch…vv, cá nước lợ tập trung của ba miền đất nước như Đồng bằng Bắc Bộ, Đồng bằng Trung Trung bộ, Đồng bằng Nam Bộ. Ngoài ra, có những bể nuôi riêng các loài Tôm, Cua, Lươn, Chạch, Ếch, Ba ba, Rùa, Ốc, các loại Trai, Nghêu, Sò, Hến. Trong mỗi bể tùy theo đặc tính của từng loài thủy sản nước ngọt, nước lợ để bố trí núi non bộ, thực vật rong rêu, sen súng, loại cây sống được trong nước để làm vật trang trí và nuôi dưỡng sinh tồn chúng.
Tầng ngầm: Là hệ thống nuôi các loại cá lớn được đưa về từ biển Đông. Các bể cá được bố trí làm bằng những loại vật liệu có sức bền vật liệu ngăn cản được sức công phá của những loại cá lớn hung dữ như Cá mập và loại cá vùng vẫy mạnh như: Cá Voi, Cá Heo…vv. Các bể cá có dung tích lớn từ 100m3 đến 300 m3. Hệ thống bể ngầm này được nuôi dưỡng các loài cá của biển Đông Việt Nam nhất là loại cá quen sống ở vùng hải lưu nước nóng chảy qua vùng biển Việt Nam. Tập trung về đây nhiều loài cá quý hiếm như: Cá Chim, Cá Thu, Cá Nụ, Cá Đé, Cá Diêu hồng, Cá Voi, Cá Mập, các loại Cá Bướm, Cá Nhám, Lươn biển, Rùa biển, Cua biển, San hô, Sam, Hầu, Ngao, Sò, Sứa, Cá kình, Bạch tuộc, Mực…vv. Đặc điểm của loài hải sản biển là sống trong môi trường nước mặn, không gian vô tận và nhiều chủng loại xen kẽ để cùng tồn tại. Do đó, trong mỗi bể cá sẽ có sự phối hợp giữa các loài với nhau để tạo sự thích nghi môi trường mới. Đồng thời, trong mỗi bể phải tạo được những núi đá ngầm, hệ thống san hô, tảo biển và nhiều loại thực vật biển để làm nơi ẩn nấp, cư trú thức ăn cho chúng. Đồng thời, nó cũng là sự trang trí thẩm mỹ cảnh quan tạo sự hấp dẫn cho người xem. Cũng như tầng 1, đều phải có hệ thống cấp, thoát nước cùng hệ thống ánh sáng đa sắc tự động. Song song với nó là hệ thống điều hòa thích hợp với các loại cá biển và tạo ra những bể cá có suối nước chảy nhân tạo.
Giữa tầng 1 và tầng 2 có cầu thang bộ lên xuống và hệ thống cầu thang máy dùng cho khách du lịch đường lên và đường xuống. Có một trạm biến thế điện cung cấp điện năng riêng và một đường dây nối với trạm cấp phát điezen dành riêng của Hoàng cung. Đặc biệt, Tòa Thủy Ngư Hoàng cung có hệ thống tầng ngầm để chứa từ 80 đến 100 xe ô tô lớn và hàng nghìn xe mô tô, xe máy của khách du lịch.
2.20. Nhà điều hành Hoàng cung
Vị trí: Toàn bộ S Khu Tổng cục Thống kê, Bộ Kế hoạch và Đầu tư (từ số nhà 6B Hoàng Diệu và Phố Hoàng Văn Thụ liền kề với Ban tuyên giáo Trung ương). Và dự kiến xây từ 6 đến 7 tầng, không kể tầng hầm.
Nhà điều hành Hoàng cung gồm: phòng làm việc của lãnh đạo, cán bộ nhân viên điều hành hoạt động của Hoàng cung Thăng Long, trong đó có các hạng mục như sau:
1. Tầng hầm: Để phương tiện xe cộ đi lại của cán bộ công nhân viên Hoàng cung và xe của khách đến liên hệ công tác.
Tầng hầm có sức chứa từ 50 đến 100 xe vận chuyển hành khách cỡ lớn khoảng 50 chỗ ngồi và 1000 đến 1500 xe mô tô, xe gắn máy.
2. Có kho tàng diện tích khoảng 2000m2 để lưu giữ vật tư, trang thiết bị máy móc cung cấp cho tất cả các bộ phận của Hoàng cung.
3. Có hệ thống phòng tiếp khách, lễ tân của Hoàng cung Thăng Long.
4. Có phòng làm việc của Tổng cục trưởng, Tổng cục phó và khoảng 500 phòng làm việc của cán bộ, nhân viên các phòng, ban.
5. Có nhà điều hành hệ thống camera định vị để theo dõi toàn bộ các hoạt động của Hoàng cung Thăng Long.
6. Một hội trường họp ở tầng 6 hoặc tầng 7, có sức chứa khoảng 1000 người.
B. CÁC HẠNG MỤC CÔNG TRÌNH PHỤ - PHỤC VỤ
CHO HOÀNG CUNG THĂNG LONG
1. Số lượng xe phục vụ khách du lịch trong nội hạt của Hoàng cung
Thăng Long khoảng 100 xe (loại xe có mui trần, thoáng mát 4 phía, di chuyển trong nội hạt Hoàng cung) chỉ duy nhất có loại xe này được hoạt động và xe có biển số đặc biệt. Có bốn vị trí tập kết đón khách du lịch của Hoàng cung Thăng Long:
- Đầu Đường Nguyễn Tri Phương giao nhau với Đường Điện Biên Phủ.
- Phố Ngọc Hà sau Bảo Tàng Hồ Chí Minh.
- Vườn hoa Sơn Tây.
- Vườn hoa cạnh Phố Mai Xuân Thưởng.
2. Năm mươi nhà vệ sinh đặt ở các vị trí cố định (thuận lợi, dễ thấy, dễ nhìn, đảm bảo tính thẩm mỹ, vệ sinh môi trường trong Hoàng cung). Ngoài ra, có từ 15 đến 20 xe vệ sinh lưu động phục vụ những đoàn khách du lịch có số lượng lớn tập trung tại một địa điểm. Đồng thời, cần từ 1500 đến 2000 thùng rác đặt ở các vị trí thích hợp trong Hoàng cung.
3. Có từ 3 đến 4 trạm biến thế điện với công suất thích hợp để phục vụ các hạng mục công trình trong Hoàng cung. Và đặc biệt có 1 tổ hợp máy điezen có công suất 1000 mê ga oat. Tổ hợp điezen này có thể đặt ở hệ thống dưới hầm hoặc một vị trí thích hợp không gây tiếng ồn, ô nhiễm. Tổ hợp điezen có tác dụng đề phòng khi hệ thống mạng điện chung có sự cố.
4. Xây dựng một nhà máy nước với công suất 5000m3/ngày để cung cấp riêng cho mọi hoạt động của Hoàng cung Thăng Long.
5. Xây dựng 4 hầm ngầm để chứa xe
Vị trí phân bổ tại các địa điểm :
- Một hầm ngầm ở đầu Đường Điện Biên Phủ – Nguyễn Tri Phương – phía Đông - Đông Nam Cột Cờ.
- Một hầm ngầm ở phía góc đường Phố Sơn Tây - Ông Ích Khiêm, liền kề
Vườn hoa Sơn Tây.
- Một hầm ngầm ở Phố Ngọc Hà sau Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh.
- Một hầm ngầm ở Dốc Ngọc Hà liền kề diện tích Bộ Nông nghiệp (cũ).
Sức chứa của 4 hầm ngầm từ 1500 đến 2000 ô tô lớn (loại 48 – 50 chỗ ngồi) ; 500 xe taxi và 10.000 xe mô tô, xe gắn máy. Bốn hầm xe ngầm này đều tính đến sự lưu thoát thuận tiện có đường vào, đường ra riêng biệt.
6. Khoảng từ 20 đến 30 nhà hàng ẩm thực để phục vụ khách du lịch Hoàng cung. Mỗi nhà hàng có sức chứa ít nhất là 50 cho tới 200 - 300 thực khách trong cùng một thời điểm. Trong đó, có một nhà ăn có sức chứa tới 1500 thực khách. Công trình này nhằm đáp ứng cho những đêm yến tiệc cung đình, vị trí đặt tại khu nhà số 1 Bắc Sơn, tiếp giáp tới Vườn Bách Thảo đối diện với số 2 Ngọc Hà. Ngoài ra, hệ thống các nhà hàng ẩm thực Hoàng cung được bố trí dọc theo các đường, phố như các số nhà 30, 32, 34, 36 Đường Điện Biên Phủ..... Và các số nhà từ 52 đến số 6 Phố Sơn Tây, khu vực Ngọc Hà sau Lăng Bác...vv.
7. Bố trí một loạt các cửa hàng bán đồ lưu niệm cho khách du lịch thuộc các số nhà : 18A, 18E, 20 và từ số 3 đến 109 Phố Lê Hồng Phong.
C. MỘT SỐ NHỮNG CÔNG TRÌNH LÀ ĐIỂM NHẤN CHO HOÀNG CUNG THĂNG LONG :
a. Tu bổ chỉnh trang lại Phố Hoàng Hoa Thám
Nơi đây là di tích lịch sử của nhà tiền Lý. Lý Nam Đế đã lập ra Nhà nước Vạn Xuân (năm 544) và cho xây dựng phòng tuyến Sông Tô Lịch chống quân nhà Lương (chạy từ Chợ Gạo, đến đoạn đê nay là Hoàng Hoa Thám tới ngã tư Chợ Bưởi – gặp Lạc Long Quân, Đường Bưởi, Hoàng Quốc Việt). Đoạn đê này nay nên dựng một tượng đài Lý Nam Đế và một tấm bia ghi rõ sự kiện di tích lịch sử của nhà tiền Lý đã lập phòng tuyến Sông Tô Lịch để chống quân xâm lược nhà Lương.
b. Tổ chức quản lý và duy trì cảnh đẹp Hồ Tây
Hồ Tây là lá phổi và cảnh đẹp thiên nhiên hết sức ngoạn mục, thi vị của Hà Nội nói chung và của Hoàng Cung Thăng Long nói riêng. Nay ta cần phải bảo dưỡng, phát triển và duy trì cảnh đẹp duy nhất mà thiên nhiên ban tặng cho Thủ đô Hà Nội. Vào thời các vương triều phong kiến Đại Việt, nhiều thi nhân mặc khách đã tập trung tại Phường Khán Xuân để sáng tác thi ca, tả cảnh đẹp Hồ Tây, Tây Hồ được mệnh danh là bát cảnh (Tây Hồ có 8 cảnh đẹp) mà nhà thơ Cao Bá
Quát đã từng viết:
Điên đảo Xuân tâm bất tự trì
Tây Hồ chân cá thị Tây Thi
dịch :
Lòng Xuân nghiêng ngả không tự cầm giữ nổi
Tây Hồ quả thật là một nàng Tây Thi.
Tám cảnh đẹp của Tây Hồ đó là :
1. Bến Trúc Nghi Tàm
2. Rừng Bàng Yên Thái (nay là Làng Yên Thái, thuộc Phường Bưởi, Quận Tây Hồ). Trịnh Sâm đã từng đến đây ngâm vịnh làm thơ.
3. Đền Thề Đồng Cổ (nằm trên Đường Thụy Khê thuộc Phường Bưởi)
4. Phật say Làng Thụy (tức Làng Thụy Chương xưa có nghề nấu rượu nổi tiếng thời Lý).
5. Đồng hoa Nghi Tàm (nổi tiếng Vườn hoa, nghề nông tang của Công chúa
Từ Hoa thời Lý).
6. Chợ đêm Khán Xuân.
7. Tiếng đàn hành cung.
8. Sâm cầm Hồ Tây.
Bởi vậy, ngày nay ta phải sử dụng Hồ Tây như thế nào cho có giá trị văn hóa và hiệu quả cao nhất. Trước hết, phải nghĩ đến môi trường và giá trị sử dụng lâu dài của Hồ Tây. Do vậy, cần phải kiểm tra việc xử lý nguồn nước thải trước khi cho chảy vào Hồ Tây. Tổng vệ sinh dọn dẹp các chất phế thải xung quanh Hồ Tây. Đặc biệt, cần dẹp bỏ các con tàu lềnh bềnh trên mặt Hồ Tây, vì nó đã phá hủy môi trường sinh thái là nơi thải rác của khách thập phương đến trên tàu ăn uống. Sự ồn ào, náo nhiệt và các sinh hoạt xô bồ của nó đã xóa đi cảnh thanh bình êm dịu và nét đẹp của Hồ Tây. Tiếng động cơ ồn ào đã xua đuổi hết đàn sâm cầm của Hồ Tây. Một loại đặc sản không nơi nào có được. Hãy trả lại cho Hồ Tây mặt nước mù sương, sóng gợn lăn tăn và sự êm đềm thanh bình yên ả của nó trong mỗi buổi sáng bình minh vọng tiếng chuông Chùa Trấn Quốc và mùi hương sen tỏa ngát đất trời như ca dao xưa đã từng ca ngợi :
Gió đưa cành trúc la đà,
Tiếng Chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương.
Mịt mù khói tỏa ngàn sương,
Nhịp chày Yên Thái, Mặt gương Tây Hồ.
Hồ Tây chỉ nên dùng một loạt thuyền gỗ độc mộc có mái chèo khỏa nước nhẹ nhàng thư thái, hoặc thuyền nhựa có guồng đạp nước chở khách đi thăm viếng cảnh quan các chùa, Phủ Tây Hồ. Xung quanh Hồ Tây nên sắp xếp lại trật tự sinh hoạt buôn bán (thực hiện giải pháp Nhà nước và nhân dân cùng có lợi không để tình trạng Nhà nước đầu tư làm đường mất hàng nghìn tỷ – làm xong nhân dân ven Hồ ra lấn chiếm bán hàng), đồng thời tăng cường các tập đoàn cây giống, để tạo cho nơi đây thêm cảnh đẹp nên thơ và có hoa thơm ngát 4 mùa.
c. Khôi phục lại cảnh quan một khúc Sông Tô Lịch.
Sông Tô Lịch là một con sông gắn liền với thần thoại Thần Long Đỗ. Nằm song song với Đường Bưởi Cầu Giấy. Nó cũng là một con sông tạo nên cảnh đẹp của Kinh Thành Thăng Long thưở xưa. Và đã một thời vang bóng:
Nước Sông Tô vừa trong vừa mát,
Cho thuyền anh ghé sát thuyền em.
Sông Tô Lịch đã một thời được cải tạo, kè đá, vét bùn lòng sông, song không sao khử hết mùi uế sú, dòng nước đen sì từ các phường, xóm, làng ven đô xả xuống. Đặc biệt, đoạn Sông Tô Lịch gặp Sông Thiên Phù nơi ngã ba của Bến Hồng Tân (có lúc gọi là Giang Tân) đã chứng kiến đoàn thuyền rồng của nhà Vua Lý Thái Tổ ngự tại đây, khi nhà Vua về thăm Đình Bảng. Chính tại nơi này, nhà Vua đã nhìn thấy rồng vàng bay lên và đã quyết định dời đô từ Hoa Lư về Thăng Long. Lần thứ hai cũng tại vị trí đó, đoàn thuyền rồng của nhà Vua ở Hoa Lư xuất phát tại Sông Sào Khê,rồi qua Sông Hoàng Long đến Sông Đáy tới Sông Nhuệ vào Sông Tô Lịch và đoàn thuyền đã ngự giá lần thứ hai trên Bến Hồng Tân. Nhân dân vùng Bưởi, Nghĩa Đô đã nghênh đón nhà Vua nồng nhiệt, ân cần. Cảm ơn tấm lòng tri âm ấy, nhà Vua đã ban cho vùng này một tên đất là Làng Bái Ân bây giờ. Nay Sông Thiên Phù đã bị lấp, chỉ còn Làng Bái Ân là di tích nơi nhà Vua buổi ban đầu tới dựng đô đất Thăng Long. Bởi vậy, đoạn sông này ta nên có giải pháp cải tạo như sau:
Đặt ở đáy sông 4 đường ống, đường kính mỗi ống 1m (có thể bằng vật liệu
gạch xây cuốn, bằng ống cao su đúc hoặc bằng ống nhựa đúc) để thoát nước thải. Đoạn đường ống này nối từ Cửa cống dốc Bưởi - Hoàng Quốc Việt tới cống qua Cầu Giấy. Hai đầu cống (Bưởi - Cầu Giấy) làm hệ thống cánh cống van tự động đóng, mở, sau đó bơm nước từ Hồ Tây hoặc Sông Hồng vào đầy khúc Sông Tô Lịch chạy song song với Đường Bưởi. Khi có nước, thuyền rồng của nhà Vua sẽ nổi bồng bềnh, cánh buồm giương lên; nơi này sẽ dựng rạp dọc theo hai bờ sông, tổ chức nhiều trò chơi, múa rối nước, đua thuyền, biểu diễn sân khấu diễn lại tích Lý Công Uẩn thiên đô. Đó là một điểm nhấn rất quan trọng cho Hoàng cung Thăng Long.
Dọc theo Đường Bưởi lợi dụng thế đất như một con đê cao, ta xây 1 bức tường áp thân đê chạy song song Đường Bưởi tới Cầu Giấy khoảng trên dưới 2km. Trên bức tường này, vẽ tranh liên hoàn Lý Công Uẩn thiên đô từ Hoa Lư về Thăng Long trên đoàn thuyền rồng từ Sông Hoàng Long theo Sông Đáy rẽ vào Sông Nhuệ và tiến vào Sông Tô Lịch. Tiết diện còn lại là những tác phẩm mô tả thành tựu kinh tế, văn hóa, giáo dục, y tế, khoa học - kỹ thuật và công nghệ trải qua 65 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Cuối của bức tường (đoạn gần Cầu Giấy) là bức tranh mô tả hai lần chiến thắng quân Pháp tiêu diệt Francis Garnier và Henri Lauren Rivière. Đây là bức tường tranh liên hoàn bằng gốm sứ nhưng có chủ đề chủ điểm theo 1 trật tự lôgic, gợi cho người xem biết được lịch sử của từng thời kỳ. Đồng thời, đây là con đường đã ổn định về cấu trúc địa mạo, địa tầng có thể tồn tại vĩnh cửu. Nó khác hoàn với con đường gốm sứ trên Đường Yên Phụ – Bến Nứa là vùng đất không ổn định về cấu trúc địa tầng nếu một mai mực nước biển dâng lên, Sông Hồng thay đổi dòng chảy thì con đường gốm sứ cũng đi theo sự phá hủy, xâm thực ấy.
d. Hà Nội phải quy hoạch để có những hành lang văn hóa phục vụ cho mục đích nâng cao dân trí và đón khách du lịch từ khắp nơi trên Thế giới và mọi miền đất nước tới tham quan Thủ đô. Do đó, chúng tôi thấy cần phải chỉnh trang
tuyến đường đã có sẵn:
1. Tuyến đường từ Cầu Thăng Long về đến Bến Phà Đen đã có sẵn nền cốt đê bê tông, tuyến này nên dành riêng cho các đối tượng: lập quầy bán sách, báo, tạp chí, hoa cảnh, hoa giáng thế, chim kiểng, cá vàng đồ lưu niệm và các quầy giải khát phục vụ khách du lịch. Hình thức trang nhã, thanh lịch, đẹp mắt đảm bảo tính thẩm mỹ cao như có các tủ kính di động, ô che, dù là, phông bạt màu sắc tươi mát phù hợp với tính chất văn hóa du lịch.
2. Tuyến đường giao nhau giữa Lạc Long Quân - Âu Cơ, An Dương Vương chạy dài theo Đường Bưởi, Đường Láng nối với Đường Kim Giang. Đặc điểm con
đường này có Sông Tô Lịch chạy song song. Đoạn Kim Giang có nhiều ngôi chùa cổ bên đường được xây dựng từ thời Lý – Trần – Lê – Hồ – Mạc – Trịnh, nay những ngôi chùa này cần được trùng tu, củng cố, tân tạo cùng với những hàng cây, dải vườn hoa được trồng bổ sung dọc theo tuyến đường mới sẽ góp thêm giá trị thẩm mỹ cho khách du lịch thưởng lãm. Cũng giống như tuyến du lịch 1 trên đây, nó chỉ được dành riêng cho người phục vụ du lịch: sách, báo, tạp chí, hoa cảnh, đồ lưu niệm, nước giải khát…vv. Ở hai tuyến đường này nên cấm những dịch vụ không liên quan tới phục vụ du lịch, môi trường phải sạch sẽ trong lành, thanh quang, mát mẻ.
đ. Củng cố tôn tạo hoàn thiện di tích lịch sử Cổ Loa.
Đây là di tích về một Thủ đô của thời các Vua Hùng dựng nước. Khu di tích lịch sử này và người anh hùng Ngô Quyền đã đóng đô ở Cổ Loa. Có ý nghĩa lịch sử vô cùng to lớn sau khi chiến thắng quân Nam Hán trên Sông Bạch Đằng lần thứ nhất, Ngô Quyền kết thúc 1000 năm đô hộ của phong kiến phương Bắc với nước ta. Thời gian qua tuy có tu bổ, sửa chữa nâng cấp, song nhiều công trình chưa đạt tiêu chuẩn một di sản, di tích của Quốc gia. Vừa sửa xong đã xuống cấp, vì vậy Khu di tích, di sản này cần phải được đầu tư và giao cho người có trình độ trách nhiệm quản lý, khai thác nó mới hy vọng có giá trị phục vụ trường tồn. Đây là điểm nhấn vô cùng quan trọng nối tiếp với Hoàng cung Thăng Long, tạo cho khách du lịch thấy được hệ thống lịch sử liên hoàn của một Quốc gia có nền văn hiến lâu đời.
e. Phục chế, tái thiết Hành Cung Cổ Bi - Gia Lâm
Khu Hành Cung Cổ Bi là di tích còn lại của 12 đời Chúa Trịnh. Nơi đây các vị Chúa Trinh dự kiến xây làm Phủ Chúa, để tách với Hoàng cung nhà Lê, xong rồi những cuộc chiến tranh Trịnh – Nguyễn và Quang Trung tiến ra Bắc Hà giải phóng Thăng Long nên ý định đó không thực hiện được. Đến giờ Hoàng cung Cổ Bi chỉ còn là phế tích một tòa nhà xây dựng cấp 4 không đúng với kiến trúc thời Lê - Trịnh. Nay nếu có điều kiện được Nhà nước cho phép tạo cho những hậu duệ của dòng họ Trịnh trong nước và Việt Kiều có thể tái thiết Hành cung này rất lộng lẫy. Nếu Hành cung Cổ Bi được tái thiết sẽ là một trong những điểm nhấn về một công trình kiến trúc dưới thời Lê – Trịnh để khách hành hương của Hoàng cung Thăng Long có thể tới thăm.
g. Tái thiết, trùng tu lại Cầu Long Biên
Việt Nam cần phối hợp với các nhà văn hóa Pháp, cụ thể là với Đại sứ quán Pháp tại Hà Nội để có thể đề ra giải pháp bảo dưỡng, trùng tu lại Cầu Long Biên. Cây cầu là tác phẩm của toàn quyền Paul Dumer, ông là người đã tâm huyết vượt nhiều trở ngại để cho xây dựng cây cầu này. Cầu Long Biên ra đời vào thời
kỳ lịch sử ấy là cây cầu nổi tiếng toàn cõi Đông Dương. Nó có tác dụng rất lớn: Cây cầu là huyết mạch phát triển giao thông giữa Hà Nội và các tỉnh phía Bắc, Đông Bắc. Và đương nhiên ngoài việc thực hiện ý đồ khai thác tài nguyên khoáng sản của thực dân Pháp, về khách quan nó còn có giá trị phát triển văn hóa, đưa văn minh Thủ đô tới các vùng miền đất nước. Thực sự Cầu Long Biên đã đi vào
lịch sử Thủ đô Hà Nội. Nó là điểm nhấn của Hoàng cung Thăng Long.
h. Sông Hồng là tác phẩm của thiên nhiên đã ban cho Hà Nội.
Dòng Sông Hồng chảy qua Hà Nội dài tới vài chục km. Một dòng sông đã tạo nên nền văn minh lúa nước của Đại Việt. Đây là thế mạnh của ngành du lịch Hà Nội. Nó giống như nước Pháp, tại Thủ đô Paris có dòng Sông Sen chảy qua. Dòng Sông Sen này đã tạo cho ngành du lịch Paris một nguồn lợi nhuận vô tận. Dòng Sông Hồng của Hà Nội trong những năm qua ngành du lịch đã có khai thác song mới ở mức độ “ăn xổi ở thì”, do đó chưa hấp dẫn khách du lịch. Tới đây, chúng tôi thấy cần phải khai thác triệt để về tuyến du lịch này. Đoạn từ Bến Phà Chèm tới Bến Hàm Tử Hưng Yên. Nội dung cần được cải tiến, tân tạo và nâng cấp:
- Phương tiện vận chuyển tàu, thuyền phải hiện đại, trang trí thẩm mỹ rực rỡ đẹp mắt.
- Dịch vụ phục vụ phải nâng cao về chất lượng (con người, tiện nghi, ẩm thực, phong cách phục vụ).
- Dòng sông phải được nạo vét chỉnh trang.
- Hai bên bờ sông phải được tái thiết, kè đắp, trồng những rừng cây, vườn hoa đẹp mắt để du khách có thể dừng chân chụp ảnh làm lưu niệm và bố trí những quán bar phục vụ khách trên cuộc hành trình.
- Bố trí những trạm dừng chân để khách du lịch mua hàng lưu niệm, sản vật, hoa quả tươi của vùng miền (khoai lang, khoai môn, khoai sọ, ngô non, chuối, dưa hấu, mít, na, ổi, mãng cầu, cam, bưởi của vùng Hưng Yên). Đặc biệt, cần tu bổ những di tích lịch sử, di sản văn hóa ở hai bên bờ.
- Dọc cuộc hành trình có lời thuyết minh của hướng dẫn viên dày dạn kinh
nghiệm, hiểu biết lịch sử. Nếu có khách nước ngoài nên được thuyết minh bằng song ngữ Việt – Anh.
Ngoài các địa điểm, địa danh cần tu bổ đầu tư trên đây, Nhà nước cần đầu tư thích đáng để phục hồi một số ngành tiểu thủ công mỹ nghệ của nước ta đã có từ lâu đời :
1. Cần củng cố phục hồi Làng Giấy Dó, Yên Thái, Hồ Khẩu, Bưởi, Tây Hồ.
2. Nghề dệt thổ cẩm của Làng Trích Sài đã có từ Thế kỷ XV (do Công chúa Ngọc Đô người đất Champa, được Vua Champa dâng lên Hoàng đế Lê Thánh Tông, nhà Vua đã cho nàng Công chúa an chí tại Trích Sài. Nơi đây, Công chúa đã dạy dân làng làm nghề dệt thổ cẩm hay còn gọi là nghề dệt lĩnh tía rất nổi tiếng; sản phẩm được nhiều khách nước ngoài ưa thích). Nếu nghề dệt lĩnh tía nơi đây được phục hồi dệt những tấm thảm in hình bóng nước Hồ Tây, Chùa Trấn Quốc, Chùa Một Cột, Khuê Văn các, Sen Tây Hồ, cùng với Đàn Sâm cầm đang bơi lội trên sóng nước, nó sẽ là những tác phẩm vô giá để khách du lịch nhớ mãi nơi này. Do vậy, nghề dệt lĩnh tía này cần được đầu tư để phục hồi.
3. Nghề Đúc Đồng Ngũ Xã đã có từ thời Lý. Nghề này xưa kia được dân Làng Ngũ Xã hành nghề bên Hồ Trúc Bạch đã có một thời phát triển rực rỡ, nay tàn lụi, những nghệ nhân tài giỏi phiêu bạt khắp nơi không còn tổ chức phường như trước. Nếu nghề đúc đồng được đầu tư phục chế lại, đúc những quả Chuông Quy Điền, Chùa Một Cột, Khuê Văn Các, Hồ Gươm, Đến Ngọc Sơn, Cầu Thê Húc… bằng đồng thu nhỏ gọn cho khách du lịch mua làm vật lưu niệm thật có ý nghĩa biết bao.
4. Gốm sứ Bát Tràng là nơi nổi tiếng trong cả nước. Nghề này đã có từ rất lâu đời trở thành nghề truyền thống. Nay được tổ chức nâng cấp đầu tư sẽ là một ngành
phục vụ đắc lực cho dịch vụ du lịch.
5. Cùng với các ngành trên, Nghề Mây tre đan, thêu ren, rua móc là những nghề có truyền thống ở nhiều làng xung quanh Thủ đô, nay được tập hợp lại đầu tư, củng cố tổ chức sẽ là những nghề phục vụ tích cực cho du lịch.
6. Ngoài ra, các nghề như Sơn mài, Sơn dầu, chế tác Khảm trai, Kim hoàn tinh xảo là những nghề tiểu thủ công mỹ nghệ sản xuất ra những vật phẩm tiêu dùng rất phù hợp và ưa thích đối với khách du lịch. Những ngành, nghề trên cũng cần được đặt trong khuôn khổ đầu tư tổ chức sản xuất dưới tác động ảnh hưởng của Hoàng cung Thăng Long nó sẽ tồn tại và phát triển lâu dài.
VI. NGUỒN TÀI CHÍNH - KINH PHÍ VÀ BIỆN PHÁP TỔ CHỨC THỰC HIỆN
1. Tổng nguồn kinh phí thực hiện đề án trên sơ bộ dự tính ban đầu hết 10 tỷ đôla.
Riêng phần giải phóng mặt bằng, đền bù các gia đình ở các Làng Ngọc Hà, Hữu Tiệp, Phố Ông Ích Khiêm, Chợ Ngọc Hà, các số nhà từ 6 đến 52 phố Sơn Tây, một số số nhà ở Đường Điện Biên Phủ từ số 28 đến 36, chiếm một phần tỷ lệ kinh phí khá lớn từ 50 đến 55!-|-!.dauphantram.!-|-! trong tổng số vốn đầu tư.
Việc đền bù các gia đình thuộc Làng Ngọc Hà, Hữu Tiệp, Đội Cấn, Sơn Tây,
Ông Ích Khiêm, Đường Điện Biên Phủ chúng tôi thấy cần có những giải pháp và phương thức đền bù dưới đây:
- Nhà nước cụ thể là Chủ tịch nước hay Thủ tướng Chính phủ cần có lời kêu
gọi hiệu triệu chung cho đồng bào trong cả nước và riêng với các khu vực nói trên.
Nói về giá trị ý nghĩa lớn lao của Hoàng Cung Thăng Long đối với lịch sử và dân
tộc.
- Họ phải được đền bù thỏa đáng, chuyển cư tới nơi ở mới cần có thỏa thuận
để tiếp tục cuộc sống sinh hoạt. Cụ thể là đối với những gia đình ở mặt đường có diện tích ở đang làm ăn buôn bán sinh lợi (nếu có thể trả bằng mặt đường ở nơi khác) hoặc sẽ được đền bù gấp đôi; dạng ở trong ngõ có ô tô đỗ trước cửa nhà đền bù theo hệ số 1.7; đối tượng thứ 3 giao thông đi lại thuận tiện hơn đền theo hệ số 1.5 và đối tượng ở nơi ngõ ngách đền theo hệ số 1.3.
- Các hộ dân ở Làng Ngọc Hà, Hữu Tiệp, Đội Cấn, Ông Ích Khiêm, Sơn Tây, Điện Biên Phủ, được ghi chép lại công đức trên bia đá dựng tại nơi họ đã di chuyển ra đi để lưu lại cho hậu thế tôn vinh cho dòng họ của mỗi gia đình vì Tổ quốc đã hy sinh cống hiến.
- Con em của các gia đình thuộc diện đất đai giải tỏa để xây dựng Hoàng cung Thăng Long sẽ được tuyển dụng làm việc trên chính mảnh đất nơi họ đã ra đi. Họ được sắp xếp bố trí công việc tùy theo trình độ học vấn, năng lực, tay nghề của mỗi người.
2. Nguồn tài chính lấy từ đầu để xây dựng Hoàng cung Thăng Long?
Kinh phí xây dựng được huy động từ các nguồn dưới đây:
2.1. Nguồn tài chính được huy động từ việc phát hành trái phiếu của Chính
phủ.
2.2. Nguồn vốn vay ODA với lãi suất thấp, trong 10 năm sẽ hoàn trả.
2.3. Chính phủ hiệu triệu ra lời kêu gọi, hiệu triệu các tầng lớp nhân dân trong cả nước góp sức (cán bộ, công nhân viên chức cống hiến từ 1 đến 2 ngày lương; nhân dân mọi miền đất nước tham gia đóng góp công đức).
2.4. Huy động khai thác, kêu gọi đóng góp công đức kiến quốc xây dựng Hoàng cung Thăng Long của hơn 3 triệu Việt Kiều.
2.5. Kêu gọi lực lượng xuất khẩu lao động ở các Quốc gia đóng góp ngày
công hướng về Tổ quốc.
2.6. Kêu gọi hàng ngàn các xí nghiệp, công ty, công ty trách nhiệm hữu hạn, Tổng công ty, các Tập đoàn kinh tế trong nước và nước ngoài đóng góp công đức xây dựng Hoàng cung Thăng Long.
2.7. Kêu gọi các cá nhân, các tổ chức Quốc tế, các tổ chức phi Chính phủ nước ngoài tài trợ giúp đỡ bằng tài chính hoặc chất xám để xây dựng Hoàng cung Thăng Long.
2.8. Mời các nhà Tư bản tài chính cùng góp vốn xây dựng Hoàng cung Thăng Long để khai thác lợi nhuận trong một thời gian nhất định theo luật pháp của Nhà nước Việt Nam.
3. Biện pháp tổ chức yếu tố con người là quyết định.
3.1. Muốn xây dựng được Hoàng cung Thăng Long thắng lợi và hoạt động có hiệu quả, thu hồi vốn nhanh thì yếu tố con người và bộ máy tổ chức đặt ra hàng
đầu mang tính chất quyết định.
- Người điều hành thực hiện đề án phải là một Tổng công trình sư có tâm,
có tầm, có tài, có đức có lòng nhiệt tình cách mạng và tình yêu Tổ quốc. Tổng công trình sư đó phải hội đủ các tiêu chí như sau:
à. Người có học vấn am hiểu sâu sắc nhiều lĩnh vực: Kiến trúc, mỹ thuật hội họa, lịch sử, phong tục, tập quán. Đặc biệt là kiến thức phong thủy trong xây dựng. Người đó phải là một nhà có năng lực tổ chức, hoạt động kinh tế, biết sử
dụng người tài và tập hợp lực lượng quần chúng.
à. Người có khả năng thuyết trình, giao tiếp, ứng xử.
à. Một Tổng công trình sư phải là một nhà tỷ phú đã có trong tay một lực lượng vật chất hùng hậu hàng tỷ đôla.
- Tổng công trình sư này sau sẽ là Tổng cục trưởng Hoàng cung Thăng Long.
3.2. Tổng cục trưởng Hoàng cung Thăng Long là một đơn vị tổ chức chính quyền hoạt động trực thuộc Thủ tướng Chính phủ và quyết định bộ nhiệm, bãi miễn của Thủ tướng Chính phủ.
3.3. Muốn thực hiện tái thiết xây dựng Hoàng cung Thăng Long phải tập hợp một đội ngũ lao động trí thức cụ thể là:
à. Ít nhất phải tập hợp được đội ngũ từ 300 tới 500 Kiến trúc sư có chuyên
môn, tay nghề cao đã từng thiết kế các công trình.
à. Một tổ chức có từ 10 đến 12 Kiến trúc sư có trình độ chuyên môn cao đã từng tham gia phục chế thiết kế các công trình cổ phương Đông và có phẩm chất đạo đức tốt giúp Tổng công trình sư duyệt đề án, phản biện các đề án và
giám sát hạng mục các công trình thi công trong Hoàng cung.
3.4. Tập hợp được một đội ngũ họa sỹ có tay nghề chuyên môn cao về các
lĩnh vực đồ họa, nội thất, điêu khắc tạo tác, sơn mài, sơn dầu, đồ gốm, khảm trai từ 250 đến 400 người.
à. Tổ chức một tổ họa sỹ khoảng 10 đến 12 người có năng lực chuyên môn giỏi, phẩm chất đạo đức tốt giúp Tổng công trình sư duyệt tác phẩm, phê bình tác phẩm và giám sát, kiểm tra chất lượng các nơi Hoàng cung đặt hàng (thuộc lĩnh vực mỹ thuật).
3.5. Đối với các tổ chức sản xuất tiểu thủ công mỹ nghệ nằm ngoài Hoàng cung phải thành lập một đầu mối đứng đầu liên hệ với họ để tổ chức sản xuất,
điều hành, giúp đỡ khai thác, giải quyết các điều kiện khi gặp khó khăn.
3.6. Thành lập 1 ban quản lý tài chính trực thuộc trực tiếp Tổng cục trưởng Tổng cục Hoàng cung. Ban tài chính này gồm những con người có nghiệp vụ tài chính, chí công vô tư, có phẩm chất đạo đức tốt. Họ có nhiệm vụ tiếp nhận các nguồn tài chính (thu, chi) như:
- Tiền viện trợ, tiền công đức
- Tiền Nhà nước đầu tư
- Tiền vay quỹ ODA
- Tiền góp vốn của các tổ chức khác…vv.
3.7. Thành lập ban thanh tra, kiểm tra, giám sát mọi hoạt động các nguồn tài chính thu, chi của Hoàng cung (cả khi nó đã đi vào hoạt động). Tổ chức này trực tiếp dưới sự quản lý điều hành của Tổng cục trưởng Hoàng cung.
Hai tổ chức trên là linh hồn có tính chất quyết định sự tồn tại và phát triển của Hoàng cung Thăng Long. Do đó, con người được tuyển chọn vào hai tổ chức này phải hết sức thận trọng chi tiết, cụ thể từng cá nhân một. Học tập những nhà quản lý Trung Hoa và Nhật Bản, họ tiến hành kiểm tra thực tiễn bằng nhân thể học, kiểm tra tư cách đạo đức trong các tình huống. Đặc biệt, lập các lá số tử vi kết hợp với nhân hình tướng để lựa chọn ra những con người tối ưu. Vấn đề này là một khoa học thực tiễn, ngay cả các nhà Bác học của hãng hàng không Vũ trụ Nasa, Mỹ cũng áp dụng để tuyển các phi hành gia tuyệt hảo khi bay vào Vũ trụ.
3.8. Đối với những người đóng góp công đức từ thiện đề nghị Nhà nước cầni có chế độ khuyến khích, ưu đãi cụ thể như:
- Người góp công đức từ 500 triệu đến 1 tỷ đôla được đúc tượng gỗ mạ vàng
đặt ở Nhà Công đức, bên cạnh Điện Kính Thiên. Và dưới bức tượng có 1 tấm bia ghi công đức.
- Người góp công đức từ 400 triệu đến dưới 500 triệu đôla được đúc tượng gỗ
mạ bạc đặt ở Nhà Công đức , bên cạnh Điện Kính Thiên. Và dưới bức tượng có 1 tấm bia ghi công đức (chữ nổi, mạ vàng).
- Người góp công đức từ 250 triệu đến dưới 400 triệu đôla được đúc tượng gỗ đặt ở Nhà Công đức, bên cạnh Điện Kính Thiên. Và dưới bức tượng có 1 tấm bia bằng đá ghi công đức (chữ nổi, mạ vàng).
- Người góp công đức từ 150 triệu tới dưới 250 triệu đôla được khắc bia đồng mạ vàng ghi công đức và kèm hình ảnh đặt tại Nhà Công đức, bên cạnh Điện Kính Thiên.
- Người góp công đức từ 100 triệu đến dưới 150 triệu đôla được khắc bia đồng mạ bạc, chữ khắc dát vàng ghi công đức và kèm hình ảnh đặt tại Nhà Công đức, bên cạnh Điện Kính Thiên.
- Người góp công đức từ 90 triệu đến dưới 100 triệu đôla được khắc bia đồng mạ kền, chữ khắc giát bạc ghi công đức và kèm hình ảnh đặt tại Nhà Công đức, bên cạnh Điện Kính Thiên.
- Người góp công đức từ 70 triệu đến dưới 90 triệu đôla được khắc chữ nổi trên bia đá kèm hình ảnh và đặt tại Nhà Công đức, bên cạnh Điện Kính Thiên.
- Người góp công đức từ 10 triệu đến dưới 70 triệu đôla được khắc chữ chìm trên bia đá kèm hình ảnh và đặt tại Nhà Công đức, bên cạnh Điện Kính Thiên.
- Người góp công đức từ 1 triệu đến dưới 10 triệu được khắc chữ nổi mạ vàng
kèm hình ảnh trên khung gỗ được treo ở các bức tường của nhà Công đức.
- Người góp công đức từ 500 ngàn đôla đến dưới 1 triệu đôla được khắc bia
gỗ khảm trai 4 chiều ghi công đức và kèm hình ảnh reo trên tường của Nhà Công đức, bên cạnh Điện Kính Thiên.
- Người góp dưới mức 500 ngàn đôla được ghi trên bia đá có nhiều người đóng góp đặt tại Nhà Công đức, bên cạnh Điện Kính Thiên.
Các loại bia đá, đồng, bạc gỗ trên đây dành cho cả những đơn vị, tổ chức
trong nước và Quốc tế.
Song song với các hình thức động viên, khuyến khích trên thì các hệ thống phương tiện thông tin đại chúng cần phải vào cuộc tuyên truyền giới thiệu về Hoàng cung Thăng Long. Đài truyền hình Việt Nam cần phải dành một thời lượng trong ngày để tuyên truyền giới thiệu, quảng bá rộng rãi về Hoàng cung Thăng Long và các nhà Công đức đóng góp một phần vào việc xây dựng Hoàng cung.
4. Đào tạo hệ thống cán bộ, nhân viên cho Hoàng cung Thăng Long
Nếu một khi đề án được thực hiện, Hoàng cung Thăng Long đi vào hoạt động bước đi song song với việc tái thiết, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật thì yếu tố,
đào tạo con người cho các bộ phận là vô cùng quan trọng.
Tất cả những con người làm việc trong Hoàng cung Thăng Long từ Giám đốc,
đến các bộ phận Trưởng, phó phòng ban tới nhân viên bảo vệ, tạp vụ, lễ tân, hưỡng dẫn viên du lịch đều nhất nhất phải được đào tạo có bài bản theo phong cách phục vụ Hoàng cung. Những con người được tuyển chọn làm việc trong
Hoàng cung phải đảm bảo các tiêu chí:
- Một lực lượng trẻ, khỏe có phẩm chất cách mạng, nhiệt tình, năng nổ.
- Được đào tạo học hành chuyên môn với hệ thống kiến thức cơ bản về lịch sử dân tộc nói chung và lịch sử Hoàng cung nói riêng.
- Những con người thực sự có tình yêu đất nước biểu hiện qua những hành vi hoạt động hàng ngày, họ nhiệt tình công tác, ứng xử văn minh, giao tiếp lịch thiệp đúng với phong cách của con người Tràng An.
- Thông thạo nghiệp vụ chuyên môn trong lĩnh vực được phân công trách nhiệm (ví dụ người chăm sóc vườn hoa cây cảnh phải biết kỹ thuật tưới tắm, chăm sóc từng loại cây theo tiêu chí kỹ thuật của từng loài; người hướng dẫn viên du lịch phải thông thạo ít nhất từ 1 đến 2 ngôn ngữ và biết lịch sử, di tích những nơi mình đưa du khách tới, người kỹ thuật viên phải vận hành, sử dụng thành
thạo các thiết bị được giao quản lý, sử dụng…vv).
Ngoài những yêu cầu chung trên đây, cần phải có sự liên kết với các trường Đại học, Tổng Cục dạy nghề để chuẩn bị đào tạo một lực lượng lao động:
+. Từ 800 đến 1000 hướng dẫn viên du lịch.
+. Từ 400 đến 500 nhân viên chăm sóc vườn hoa chim kiểng, Vườn Thượng Uyển và các loại cỏ, cây, hoa lá khác trong Hoàng cung.
+. Từ 500 đến 1000 nhân viên bảo vệ có nghiệp vụ.
+. Từ 300 đến 500 kỹ thuật viên vận hành các thiết bị trong Hoàng cung.
+. Từ 150 đến 200 nhân viên, kỹ thuật viên biết vận hành và chăn nuôi thủy sản.
+. Hàng trăm nhân viên biết bảo dưỡng và hoạt động trong lĩnh vực bảo tàng học.
+. Hàng trăm kỹ sư xây dựng thiết kế và lực lượng kỹ sư điều hành, quản lý.
+. Đào tạo, tổ chức liên kết một tổ hợp võ sư chuyên biểu diễn các tiết mục võ thuật dân tộc.
+. Hàng ngàn các diễn viên biểu diễn văn hóa nghệ thuật, sân khấu, ca múa nhạc, tuồng, chèo, cải lương, hát ca trù và biểu diễn các khí cụ âm nhạc độc tấu như Sáo, Đàn bầu, Nhị, Hồ, Đàn tranh…vv.
+. Đào tạo hàng trăm các kỹ thuật viên đầu bếp chính biết nấu những món ăn Hoàng cung và hàng ngàn nhân viên nấu ăn lành nghề và phục vụ bàn.
+. Đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ từ 500 đến 1000 nhân viên bán hàng lưu niệm cho khách du lịch nói thông thạo các ngôn ngữ Anh, Pháp, Nga, Đức, Trung.
Tất cả những con người phục vụ trong Hoàng cung phải được giáo dục, phải thấm nhuần một tư tưởng mình là người Việt Nam đang mang ánh sáng văn hóa Việt Nam để tỏa rạng trên Thế giới. Từ đó, xây dựng một phong cách phục vụ của một nhân viên Hoàng cung.
Cùng với việc đào tạo đội ngũ nhân viên của Hoàng cung thì việc chuẩn bị đặt hàng với các Hội, ngành chuyên môn viết, sáng tác các tác phẩm văn học nghệ thuật với các tác giả nhằm phục vụ cho sân khấu, điện ảnh cũng phải tiến hành song song với việc tái thiết xây dựng Hoàng cung. Ta phải có những tác giả chuyên sáng tác những đề tài kịch bản về lịch sử. Mỗi vương triều phong kiến, mỗi vị Vua Chúa, các sự kiện lịch sử đều là những đề tài có thể dựng thành phim và những vở kịch phục vụ sinh động, thiết thực cho khách du lịch.
Hoàng cung Thăng Long phải có một tạp chí Tuyên truyền, giới thiệu bằng song ngữ Việt – Anh.
VII. THỜI GIAN KHỞI CÔNG VÀ KẾ HOẠCH THỰC THI ĐỀ ÁN KHI CÔNG TRÌNH ĐI VÀO HOẠT ĐỘNG
A. Thời gian khởi công và đi vào hoạt động.
Nếu đề án được thực thi, các hạng mục công trình được thi công chậm nhất trong vòng 60 tháng và nhanh nhất kết thúc trong vòng 48 tháng.
Thời gian khởi công Tháng 4 năm 2011 (tức Tháng Thìn năm Tân Mão).
Thời gian đi vào hoạt động của Hoàng cung từ Quý 1 năm 2015
Thời gian hoàn vốn nhanh nhất từ 5 năm đến 6 năm.
Lâu nhất là 10 năm (nhưng khả năng này là không thể có).
Đại Điện Kính Thiên là công trình khởi công đầu tiên, tiếp nối là hai tòa nhà
Tả vu, Hữu vu(Cung Hoàng hậu, Lầu Công chúa; Lầu Hoàng đế và Nhà Công
đức). Tiếp đó, là tượng đài thuyền rồng Lý Công Uẩn trước Điện Kính Thiên.
Vườn Thượng Uyển (thu nhỏ trong biểu tượng) và tiếp nối là hệ thống các
hạng mục công trình đã trình bày ở trên.
B. Cơ sở khoa học để tính toán tình hình thu nhập, hoạt động kinh tế trong văn hóa của Hoàng cung Thăng Long.
1. Trước hết dựa vào số liệu theo dõi tình hình hoạt động du lịch của Tử Cấm Thành Bắc Kinh và Hoàng cung Bangkok Thái Lan trong nhiều năm qua để so
sánh, tham khảo...
2. Căn cứ vào số liệu của Tổng cục du lịch cung cấp về số lượng khách nước
ngoài và nội địa đến Hà Nội qua các năm và tính bình quân chi phí thực của một khách du lịch khi tới Hà Nội.
3. Từ các căn cứ trên để có số liệu tính toán, dự báo nguồn thu du lịch của Hoàng cung Thăng Long hàng năm khi nó đi vào hoạt động. Đó sẽ là một phép tính lũy tiến tăng trưởng và lớn dần lên qua mỗi năm. Ví dụ: năm đầu doanh thu từ 500 đến 600 triệu đôla, Tới năm sau con số ấy có thể tăng gấp rưỡi hoặc gấp đôi. Nó chỉ có tăng trưởng không có sự thụt lùi, nếu xây dựng Hoàng cung đúng dự án thiết kế, tổ chức hoạt động trong Hoàng cung có sự sáng tạo và năng lực phục vụ tốt.
Trên đây, là dự án về việc xây dựng tái thiết một Hoàng cung Thăng Long trở thành một khu di tích lịch sử, di sản văn hóa liên hoàn lớn nhất Quốc gia, rất mong được đồng chí Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương Đảng xem xét và sớm cho ý kiến.
Xin trân trọng cảm ơn và kính chúc đồng chí Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương Đảng dồi dào sức khỏe.
CHỦ NHIỆM ĐỀ ÁN - GIÁM ĐỐC TRUNG TÂM CTCS : NHÀ N/C. NGUYỄN HOÀNG ĐIỆP
ỦY VIÊN TRƯỞNG ĐỀ ÁN - CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG TRUNG TÂM CTCS : GS. TSKH. ĐINH NGỌC LÂN
ỦY VIÊN PHÓ ĐỀ ÁN: TS. NGUYỄN ĐỨC TRẠCH
ỦY VIÊN PHÓ ĐỀ ÁN: BS. ĐẠI TÁ ĐỨC THÔNG
Các thành viên tham gia đề án:
1. Nhà giáo – Ủy viên Hội đồng Trung tâm CTCS - NGUYỄN THỊ LIÊN HƯƠNG
2. Họa sĩ – Ủy viên Hội đồng Trung tâm CTCS - TRƯƠNG THẢO
3. Ủy viên Hội đồng Trung tâm CTCS - NGUYỄN DUY QUÝ
à Thời Lý, Vua Lý Thái Tổ cho xây dựng Điện Càn Nguyên và một số điện khác như Tập Hiền, Giảng Võ kế bên. Điện Càn Nguyên sau bị động đất và sét đánh làm đổ sập, nên Vua phải lánh sang Điện Tập Hiền để thiết triều. Rồi một hôm Vua lại thấy rồng vàng xuất hiện trên nền Điện Càn Nguyên nên đã bàn với quần thần tiếp tục cho xây dựng lại cung điện trên nền cũ. Đến thời Trần gọi là Điện Thiên An. Tới đời Lê xây dựng Điện Kính Thiên. Điện Kính Thiên thời ấy xây hai tầng, tám mái chồng diêm. Bờ nóc đắp nổi đôi rồng chầu Mặt trời, góc đao cong. Thềm trước Điện mười bậc, có 4 rồng, hai rồng chính hai bên là lối lên đại điện của Vua, hai bên rồng phụ là lối lên của bách quan văn võ. Điện xây dựng hình chữ nhị, có lan can và sân đằng trước khá rộng.
à. Tháp nhà Phật thường xây 13 tầng, nhưng đây là Bảo Tháp Quốc gia không tuân thủ theo nguyên tắc này. Bảo Tháp tàng chứa những giá trị tinh túy nhất về trí tuệ của dân tộc. Tại đây, có thể trưng bày những tác phẩm bất hủ về các thành tựu khoa học tự nhiên, văn hóa nghệ thuật của Quốc gia và Thế giới.